Theo thông tin, Barclay Zurich Nikolas Vasilievich (Giám đốc phân bổ tài sản toàn cầu) cùng với Lucas Gailing (Giám đốc chiến lược kinh tế vĩ mô và chủ đề) cho biết trong một báo cáo nghiên cứu rằng các nền kinh tế chính trên toàn cầu đang phát triển theo các quỹ đạo khác nhau; lợi suất trái phiếu chính phủ đủ khả năng để đè bẹp nhiều khoản đầu tư khác, nhưng không phải tất cả tài sản lưu động đều như vậy; cổ phiếu vẫn là cốt lõi của lợi suất dài hạn; các khoản đầu tư thay thế không lưu động, đặc biệt là quỹ đầu cơ, thường có thể phát triển mạnh trong môi trường này. Ngân hàng này dự đoán rằng trong vòng mười năm tới, lợi suất trái phiếu chính phủ khu vực đồng euro và trái phiếu đầu tư cấp sẽ khoảng 5.0%, trong khi lợi suất trái phiếu Mỹ và Anh sẽ dao động từ 4.5% đến 5.2%. Dự đoán về lợi suất trái phiếu cao đã chỉ cao hơn dự đoán này từ 1% đến 1.5%.
Các điểm chính của Barclay như sau:
Thị trường tài chính năm nay đang đầy biến động và nửa năm sau cũng khó có khả năng yên tĩnh hơn. Tuy nhiên, giả định dài hạn được cập nhật của ngân hàng về kinh tế vĩ mô và thị trường cho thấy rằng lợi suất dài hạn bị ảnh hưởng không đáng kể bởi tiếng ồn ngắn hạn, bất kể tiếng ồn đó có lớn đến đâu.
Dự đoán kinh tế vĩ mô dài hạn (2025 – 2034)
Dự đoán về các biến số kinh tế vĩ mô quan trọng trong vòng 5 năm (2025 – 2029) và 10 năm (2025 – 2034)
Khi ngay cả tương lai trong một năm cũng đầy bất định, mọi người nên quyết định đầu tư trong 10 năm như thế nào? Có lẽ hai câu nói nổi tiếng của các bậc hiền triết trong giới đầu tư sẽ giúp giải quyết vấn đề mang tính thực tiễn này – hai bậc hiền triết đó là Mike Tyson và Warren Buffett. Mike Tyson có một câu nói nổi tiếng: “Mọi người đều có kế hoạch, cho đến khi bị một cú đấm vào mặt.” Đó là câu nói của ông trong một buổi phỏng vấn trước trận đấu với đối thủ Evander Holyfield.
Buffett, người có rất nhiều câu nói danh giá về đầu tư, đã từng nói: “Thị trường chứng khoán là một công cụ chuyển tiền từ những người nóng vội sang những người kiên nhẫn.” Khác với các trận đấu quyền anh, trong lĩnh vực đầu tư, tính bất định ngắn hạn không nhất thiết dẫn đến sự biến động dài hạn, bởi các yếu tố cơ bản sẽ dần dần phát triển và cuối cùng sẽ phục hồi từ các tình huống cực đoan.
Đánh giá lại các yếu tố cơ bản
Tuy nhiên, các quan điểm làm cơ sở cho dự đoán của ngân hàng cần phải được cập nhật thường xuyên. Từ tăng trưởng kinh tế, lực lượng lao động, vốn và năng suất, đến lập trường chính sách tài chính và tiền tệ, cấu trúc thị trường trái phiếu cũng như sự tăng trưởng và định giá của cổ phiếu và các loại tài sản khác đều cần được xem xét.
Những điểm quan trọng – dưới đây là những kết luận chính mà ngân hàng rút ra từ việc xem xét lại giả định dài hạn của mình trong năm nay:
Các nền kinh tế chính toàn cầu đang phát triển theo các quỹ đạo khác nhau
Lợi suất trái phiếu chính phủ đủ để đè bẹp nhiều khoản đầu tư khác, nhưng không phải tất cả tài sản lưu động đều như vậy
Cổ phiếu vẫn là cốt lõi của lợi suất dài hạn
Các khoản đầu tư thay thế không lưu động, đặc biệt là quỹ đầu cơ, thường có thể phát triển mạnh trong môi trường này
Các giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh tế
Những khó khăn ngắn hạn của các nền kinh tế lớn trên thế giới không chỉ khác nhau (như đã đề cập trong “Rung chuyển nhưng không lung lay”), mà còn có những triển vọng dài hạn khác nhau. Tiềm năng tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế Mỹ được xác định là hơn 2.5% (cao hơn mức tăng trưởng sau đại dịch), trong khi tiềm năng dài hạn của khu vực đồng euro gần 1.5%, thấp hơn nhiều.
Sự khác biệt giữa hai nền kinh tế này cuối cùng là do cấu trúc dân số và sự tăng trưởng năng suất. Tất cả các nền kinh tế trong khu vực đồng euro đều đối mặt với vấn đề dự kiến giảm số lượng dân số trong độ tuổi lao động, vấn đề này khó có thể được bù đắp bằng cách tăng tỷ lệ tham gia lao động. Dự kiến, Mỹ sẽ áp dụng công nghệ mới nhanh hơn (cùng với luật lao động linh hoạt hơn), điều này sẽ giúp họ dẫn đầu trong cuộc đua năng suất. Triển vọng tăng trưởng dài hạn của Trung Quốc dự kiến sẽ tiếp tục giảm, hiện khoảng 3.5%, trong khi Ấn Độ được dự đoán vẫn sẽ tăng trưởng trên 5%, dù tốc độ tăng trưởng cũng đang chậm lại.
Về chính sách tiền tệ (quyết định chính sách tiền tệ sẽ xác định lợi suất tiền mặt và trái phiếu ngắn hạn), chu kỳ hiện tại gần như đã đến hồi kết. Ngân hàng Trung ương Châu Âu gần như đã hoàn tất việc tăng lãi suất và bắt đầu giảm lãi suất; Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ và Ngân hàng Anh cũng dự kiến sẽ hạ lãi suất xuống gần mức “lãi suất trung tính” khoảng 3% và 3.9%.
Việc kết hợp giữa dự đoán ngắn hạn rất bất định với dự đoán dài hạn được thúc đẩy bởi cấu trúc cho thấy rằng con đường tăng trưởng của thế giới phát triển khó có khả năng đồng nhất, sự khác biệt giữa tăng trưởng thực tế và lãi suất ngắn hạn thực tế có thể sẽ trở thành đặc điểm nổi bật trong thập kỷ tới.
Trái phiếu: Lợi suất cao và chênh lệch hẹp
Dự đoán lợi suất trái phiếu dài hạn phần lớn phụ thuộc vào tỷ lệ lợi suất tại thời điểm xác định. Chừng nào mà không có trường hợp vỡ nợ xảy ra, công cụ thu nhập cố định có thể đạt lợi suất dài hạn. Mức lợi suất hiện tại đang ở mức cao lịch sử, điều này phản ánh trong sự chênh lệch giữa lợi suất trái phiếu chính phủ và trái phiếu đầu tư cấp so với lợi suất trung bình dài hạn của chúng (như thể hiện trong hình dưới đây).
Chênh lệch tín dụng hiện đang ở mức thấp lịch sử, điều này làm tăng khả năng mở rộng chênh lệch cho các phân khúc có rủi ro cao trong lĩnh vực thu nhập cố định. Do đó, hiệu suất của trái phiếu tín dụng cao dự kiến sẽ thấp hơn mức trung bình lịch sử kể từ năm 2005.
Ngân hàng này dự đoán rằng trong vòng mười năm tới, lợi suất trái phiếu chính phủ khu vực đồng euro và trái phiếu đầu tư cấp sẽ khoảng 5.0%, trong khi lợi suất trái phiếu của Mỹ và Anh sẽ dao động từ 4.5% đến 5.2%. Dự đoán về lợi suất trái phiếu cao chỉ cao hơn dự đoán này từ 1% đến 1.5%.
Cổ phiếu: Rủi ro ngắn hạn, tăng trưởng dài hạn
Cổ phiếu phần lớn phụ thuộc vào sự tăng trưởng lợi nhuận của công ty để thúc đẩy lợi suất, cho dù những lợi suất này được thực hiện trong thời gian đầu tư hay mất nhiều thời gian hơn để đạt được, và định giá cổ phiếu cũng phản ánh điều này. Trong năm năm qua, sự tăng trưởng lợi nhuận dự kiến đã đẩy mạnh đáng kể định giá, đặc biệt là trên thị trường Mỹ.
Những biến động năm nay đã khiến mọi người điều chỉnh lại dự đoán về triển vọng tăng trưởng trong tương lai, trong khi sự thay đổi trong chính sách thương mại Mỹ đã dẫn đến việc bán tháo trên thị trường. Tuy nhiên, bất chấp sự phục hồi chóng mặt trong định giá, định giá hiện tại có vẻ tốt hơn một chút so với năm ngoái và ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng dài hạn cũng nhỏ hơn. Tuy nhiên, vẫn cần phải ghi nhận sự cải thiện của nền kinh tế để cổ phiếu không còn bị coi là đắt đỏ.
Trong giai đoạn dự đoán của ngân hàng, triển vọng tăng trưởng thực tế có phần bình lặng, đặc biệt là ở châu Âu. Nhìn chung, lợi suất mong đợi của các thị trường phát triển vẫn ở mức trung bình hoặc thấp hơn mức trung bình dài hạn, với giá trị cụ thể khác nhau theo từng khu vực, trong khoảng 6% đến 8%. Do đó, đối với những nhà đầu tư có khả năng bỏ qua những biến động ngắn hạn, cổ phiếu vẫn nên mang lại lợi suất cao hơn tiền mặt.
Các khoản đầu tư thay thế có tính thanh khoản: Được thúc đẩy bởi tiền mặt, kém hơn trái phiếu
Lợi suất dự kiến của hàng hóa là 1.7%, cao hơn đáng kể so với mức bình quân lịch sử trong 20 năm qua. Tuy nhiên, trong năm năm qua, tỷ lệ lợi suất hàng năm của giỏ hàng hóa rộng lớn đã vượt quá 11%. Những quan sát khác biệt này đã nhấn mạnh tại sao loại tài sản này thường chỉ nên chiếm một phần nhỏ trong danh mục đầu tư: để cung cấp lợi ích của sự phân tán đầu tư, đặc biệt trong thời kỳ cú sốc lạm phát.
Được thúc đẩy bởi lợi suất tương đối cao từ các chiến lược giao dịch thay thế tiền mặt và cổ phiếu, lợi suất dự kiến của các khoản đầu tư thay thế có tính thanh khoản trong vòng 10 năm tới là 3.9%, cao hơn đáng kể so với mức trung bình dài hạn. Tuy nhiên, so với trái phiếu chính phủ, lợi suất của loại tài sản này có thể không quan trọng (trái phiếu chính phủ có thể cung cấp lợi suất điều chỉnh theo rủi ro cao hơn và thấp hơn trong mối tương quan với cổ phiếu và trái phiếu tín dụng cao).
Các khoản đầu tư thay thế không lưu động: Chi phí và lợi suất không lưu động
Dự kiến thị trường tư nhân (bao gồm cổ phần tư nhân, nợ, bất động sản và hạ tầng) trong vòng mười năm tới sẽ có hiệu suất tương đối tốt. Đặc biệt, những quỹ giữ vai trò thay thế cho cổ phiếu và trái phiếu tín dụng trong danh mục đầu tư thường sẽ phát triển mạnh trong môi trường lãi suất cao.
Trong tất cả các chiến lược quỹ đầu cơ, ngân hàng này dự đoán tỷ lệ lợi suất trung bình khoảng 6.5%. Các công cụ giảm rủi ro và công cụ phân tán đầu tư trong loại tài sản này có thể tốt hơn trong việc hấp thụ biến động thị trường so với các khoản đầu tư thay thế có tính thanh khoản, điều này cũng nhờ cấu trúc của chúng, vốn chủ yếu được thiết kế cho những nhà đầu tư kiên nhẫn.
Lợi suất của thị trường tư nhân phần lớn theo dõi hiệu suất của tài sản tham chiếu trên thị trường công khai của nó, và đi kèm với một khoản phụ phí không lưu động. Ngân hàng đánh giá rằng khoản phụ phí này nằm trong khoảng 0.5% – 3.0%, với khoản phụ phí đầu tư bất động sản trực tiếp nằm ở phần thấp của khoảng này, trong khi quỹ thu mua (chiến lược cổ phần tư nhân phổ biến nhất) nằm ở phần cao của khoảng này.
Thời gian đầu tư của các quỹ này dao động từ 7 đến 12 năm, được thiết kế đặc biệt cho những nhà đầu tư dày dạn kinh nghiệm và kiên nhẫn, và trong phụ phí không lưu động, thời gian đầu tư dài như vậy còn có thể phản ánh trong giá cả.
“Định giá hiện có vẻ tốt hơn một chút so với năm ngoái và ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng dài hạn cũng nhỏ hơn. Tuy nhiên, vẫn cần phải ghi nhận sự cải thiện của nền kinh tế để cổ phiếu không còn bị coi là đắt đỏ.”
(Phụ phí không lưu động đã giảm sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu)
Giữ vững chiến lược đã định, đặc biệt khi gặp phải cú sốc
Mặc dù phải chịu đựng cú sốc không phải là một trải nghiệm dễ chịu, mọi người nên ghi nhớ rằng đầu tư không phải là một trận đấu quyền anh, nó không tích lũy mệt mỏi theo thời gian. Những tin tức tràn ngập có thể xem như là không thể cưỡng lại, nhưng việc nhìn lại những quan điểm dài hạn của ngân hàng sẽ cung cấp cho nhà đầu tư nền tảng vững chắc để hành động.
“Trong lĩnh vực đầu tư, do các yếu tố cơ bản phát triển chậm và thường kéo giá biến động từ những mức cực đoan, sự bất định ngắn hạn không nhất thiết chuyển thành bất định dài hạn.”