Nhận biết, Tổng thư ký Hiệp hội Công nghiệp Ô tô Trần Đông Thụ đã công bố rằng trong tháng 4, doanh số bán lẻ ô tô đạt 1,755 triệu chiếc, tăng 14,5% so với năm trước; tổng doanh số từ tháng 1 đến tháng 4 là 6,872 triệu chiếc, tăng 7,9% so với năm trước. Tỷ lệ thâm nhập của xe năng lượng mới đã hồi phục lên 51,5%, nhờ các chính sách đổi cũ lấy mới và các biện pháp thúc đẩy tiêu dùng của địa phương đã kích thích thị trường. Từ tháng 1 đến tháng 4, tồn kho của nhà sản xuất và kênh phân phối đều gia tăng, phản ánh sự tăng cường niềm tin vào thị trường. Về xuất khẩu, trong tháng 4, xuất khẩu xe năng lượng mới đạt 189,000 chiếc, tăng 44,2% so với năm trước, chiếm 44,6% tổng xuất khẩu ô tô; BYD, Tesla, và Chery dẫn đầu.
1. Tổng quan thị trường ô tô tháng 4
Doanh số bán lẻ: Trong tháng 4, doanh số bán lẻ thị trường ô tô đạt 1,755 triệu chiếc, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước, nhưng giảm 9,4% so với tháng trước. Tính từ đầu năm đến tháng 4, doanh số bán lẻ tích lũy là 6,872 triệu chiếc, tăng 7,9% so với năm trước. Trong vài năm qua, thị trường ô tô trong nước đã có diễn biến “thấp ở đầu năm và cao ở giữa năm”, tháng 4 năm nay chỉ thấp hơn một chút so với mức cao nhất tháng 4 năm 2018 là 1,81 triệu chiếc, cho thấy doanh số tháng 4 năm nay vẫn ở mức cao lịch sử. Nguyên nhân là vào tháng 4 năm 2024, doanh số thị trường ô tô vẫn trong giai đoạn phục hồi sau cuộc chiến giá cả, tỷ lệ doanh số bán hàng hàng tháng chỉ đạt 6,7%, thấp hơn khoảng 0,2% so với tỷ lệ doanh số tiêu chuẩn của tháng 4 năm những năm bình thường. Chính phủ đã kích thích chính sách đổi cũ lấy mới sớm, các hỗ trợ về chính sách cũng được thực hiện đầy đủ, do đó, sự tăng trưởng của thị trường đầu năm khá tốt và cuộc chiến giá cả cũng vì vậy mà tương đối ôn hòa, tình trạng khốn khó trong ngành đã được cải thiện nhờ sự tăng trưởng của thị trường. Tốc độ tăng trưởng doanh số tháng 4 so với cùng kỳ năm trước đạt mức cao nhất trong gần 10 năm ở các năm bình thường, đã đảo ngược tính chất tăng trưởng chậm của doanh số tháng 4 trong gần 10 năm qua, và进一步削弱了汽车市场季度周期波动特征。随着外部环境的剧烈复杂变化,国家促内需消费的核心增长就是私车消费,4月的汽车消费和增加值贡献是很好的。在国家促消费政策推动下,很多省市出台并逐步落实了相应的促消费政策,叠加主机厂厂补加码、金融支持、车展等线下活动的全面启动,4月车市走势良好。随着春节前的燃油车消费潮转为节后的新能源消费潮,新能源渗透率持续提升,新能源车成为春季乘用车市场恢复的主要驱动力。2025年4月乘用车市场的特征:
Một, sản xuất và bán buôn ô tô trong tháng 4 đạt mức cao kỷ lục;
Hai, từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2025, doanh số bán lẻ ô tô trong nước đạt mức tăng trưởng dương 6%, tốc độ tăng trong tháng 4 đạt 14,5%, tăng ròng 220,000 chiếc, đạt mức tăng “mở đầu đỏ” vượt kỳ vọng 7,9% cho tháng 1-4 năm 2025;
Ba, nhìn chung, cuộc chiến giá cả giảm bớt một chút, nhưng nhiều chính sách ưu đãi ẩn như tăng cường trang bị năm sản xuất, điều chỉnh quyền lợi chủ sở hữu xe… đã xuất hiện dồn dập. Trong tháng 4, chỉ có 14 mẫu xe giảm giá, giảm mạnh so với 41 mẫu xe trong tháng 4 năm trước và 19 mẫu xe trong tháng 4 năm 2023, điều này cho thấy cuộc chạy đua giảm giá đã rõ rệt hạ nhiệt. Khuyến mãi xe chạy xăng trong tháng 4 đạt 22,2%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với tháng trước, khuyến mãi xe chạy xăng đã định hình ở mức ổn định khoảng 22% trong suốt 10 tháng qua;
Bốn, thị phần bán buôn của ô tô thương hiệu tự sản xuất trong tháng 4 đạt 70,3%, thị phần bán lẻ trong nước đạt 65,5%, tăng khoảng 8 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước;
Năm, trong tháng 1-4 năm 2025, tồn kho của nhà sản xuất tương đối ổn định, với tồn kho của nhà sản xuất tăng 80,000 chiếc và tồn kho của kênh phân phối tăng 40,000 chiếc, tổng thể tăng 120,000 chiếc, trong khi tung ra thị trường giảm 410,000 chiếc trong cùng kỳ năm trước;
Sáu, tỷ lệ thâm nhập của xe năng lượng mới trong nước đã phục hồi lên 51,5%, cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ của xe năng lượng mới dưới nền tảng của các chính sách phù hợp như loại bỏ xe cũ và miễn thuế thu nhập cho xe năng lượng mới;
Bảy, trong tháng 1-4, xuất khẩu ô tô thương hiệu tự sản xuất đạt 830,000 chiếc, giảm 13% so với 960,000 chiếc cùng kỳ, xuất khẩu xe năng lượng mới đạt 480,000 chiếc, tăng 86%, chiếm 37% xuất khẩu tự sản xuất. Mặc dù vào đầu năm, các thương hiệu nội địa đã chủ động giảm bớt hàng tồn kho ở Nga và xuất khẩu sang Nga giảm, nhưng thị phần của các thương hiệu nội địa tại thị trường Nga vẫn duy trì ở mức trên 55%. Xuất khẩu trong tháng 4 dần ổn định, xét trong hoàn cảnh hiện nay của ngành công nghiệp ô tô Nga, xuất khẩu ô tô của Trung Quốc vào Nga sẽ phục hồi ở một mức độ nhất định;
Tám, sự đóng góp của việc mua sắm và đổi xe vẫn tiếp tục gia tăng. Tính đến 24 tháng 4 lúc 24 giờ, toàn quốc đã thực hiện chính sách đổi xe 270,500 chiếc, số lượng đơn xin tăng 120,000 chiếc so với 1 tháng trước đó là 150,000 chiếc. Tham khảo quy mô khoảng 1,72 triệu chiếc xe cá nhân được bán lẻ trong tháng 3, khoảng gần 70% người mua xe cá nhân trong tháng 4 là người hưởng lợi từ việc đổi xe cũ lấy mới, tỷ lệ mua xe mới lần đầu tháng 4 giảm xuống khoảng 31%, sự đổi mới và tiêu dùng nâng cao đã trở thành xu hướng chính trong mua sắm xe.
Trong tháng 4, doanh số bán lẻ của các thương hiệu tự sản xuất đạt 1,15 triệu chiếc, tăng 31% so với năm trước, nhưng giảm 5% so với tháng trước. Trong tháng 4, thị phần bán lẻ của thương hiệu tự sản xuất trong nước đạt 65,5%, tăng 8 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Từ tháng 1 đến tháng 4, thị phần bán lẻ của các thương hiệu tự sản xuất đạt 64%, tăng 7,9 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, các thương hiệu tự sản xuất đạt được sự gia tăng rõ rệt trong thị trường xe năng lượng mới và thị trường xuất khẩu. Các công ty ô tô truyền thống chủ chốt thể hiện sự chuyển đổi và nâng cấp xuất sắc, với BYD, Geely, Chery, Changan và các thương hiệu ô tô truyền thống khác có thị phần tăng rõ rệt. Doanh số bán lẻ của các thương hiệu liên doanh hàng đầu trong tháng 4 đạt 440,000 chiếc, giảm 3% so với năm trước và giảm 8% so với tháng trước. Tháng 4, thị phần bán lẻ của các thương hiệu Đức là 15,6%, giảm 3,4 điểm phần trăm so với năm trước; thị phần bán lẻ của các thương hiệu Nhật Bản là 12,2%, giảm 2,7 điểm phần trăm; thị phần bán lẻ của các thương hiệu Mỹ là 4,8%, giảm 1,1 điểm phần trăm. Doanh số bán lẻ của xe sang tháng 4 đạt 170,000 chiếc, giảm 18% so với năm trước và giảm 32% so với tháng trước. Tháng 4, thị phần bán lẻ của các thương hiệu sang trọng đạt 9,5%, giảm 3,7 điểm phần trăm so với năm trước, thị trường bán lẻ xe sang trọng truyền thống thể hiện khá tốt. Về xuất khẩu: Dựa trên dữ liệu của Hiệp hội ô tô, trong tháng 4, xuất khẩu ô tô (bao gồm cả xe hoàn chỉnh và CKD) đạt 423,000 chiếc, giảm 2% so với năm trước và tăng 7% so với tháng trước; trong tháng 1-4, xuất khẩu ô tô của các nhà sản xuất đạt 1,55 triệu chiếc, tăng 1% so với năm trước. Trong tháng 4, xe năng lượng mới chiếm 44,6% tổng xuất khẩu, tăng 14 điểm phần trăm so với cùng kỳ. Xuất khẩu của các thương hiệu tự sản xuất đạt 340,000 chiếc, tăng 0,1% so với năm trước nhưng giảm 1% so với tháng trước; xuất khẩu của các thương hiệu liên doanh và xe sang đạt 80,000 chiếc, giảm 10% so với cùng kỳ. Về sản xuất: Trong tháng 4, sản xuất ô tô đạt 2,230,000 chiếc, tăng 11,2% so với cùng kỳ và giảm 10,3% so với tháng trước. Trong tháng 1-4, tổng sản xuất ô tô đạt 8,544,000 chiếc, tăng 13,7% so với năm trước, sản xuất của tháng 4 cao hơn 220,000 chiếc so với mức cao lịch sử 2,101,000 chiếc của tháng 4 năm 2024, đã đóng góp cho việc ổn định tăng trưởng của địa phương. Sản xuất xe sang trong tháng 4 giảm 19% so với năm trước, giảm 17% so với tháng trước; sản xuất của các thương hiệu liên doanh giảm 4% so với năm trước và giảm 20% so với tháng trước; sản xuất của các thương hiệu tự sản xuất tăng 23% so với năm trước nhưng giảm 6% so với tháng trước.
Bán buôn: Trong tháng 4, doanh số bán buôn ô tô của các nhà sản xuất đạt 2,190,000 chiếc, lập kỷ lục cao nhất trong tháng, tăng 10,7% so với năm trước nhưng giảm 9,2% so với tháng trước; từ tháng 1 đến tháng 4, doanh số bán buôn ô tô của các nhà sản xuất đạt 8,468,000 chiếc, tăng 11,1% so với năm trước. Nhờ sự thúc đẩy mạnh mẽ từ doanh số bán lẻ, tỷ lệ tăng trưởng doanh số bán buôn trong tháng 4 thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng doanh số bán lẻ 3,8 điểm phần trăm. Doanh số bán buôn của các công ty ô tô tự sản xuất đạt 1,540,000 chiếc, tăng 23% so với năm trước nhưng giảm 3% so với tháng trước. Doanh số bán buôn của các công ty ô tô liên doanh chủ yếu là 438,000 chiếc, giảm 6% so với năm trước và giảm 21% so với tháng trước. Doanh số bán buôn xe sang đạt 211,000 chiếc, giảm 20% so với năm trước và giảm 23% so với tháng trước. Tỷ lệ bán buôn của các nhà sản xuất ô tô chủ chốt trong tháng 4 đã thay đổi, với các công ty nhỏ có dấu hiệu nổi lên dần. Các công ty ô tô lớn như Geely, Chery, Changan… đều có doanh số tháng 4 so với tháng trước và năm trước mạnh mẽ. So với tháng 3, trong tháng 4 chỉ có 3 công ty ô tô có doanh số bán trên 150,000 chiếc (trong tháng 3 là 5 công ty và cùng kỳ năm trước cũng là 3 công ty), chiếm 36% tổng thị trường (tháng trước 47%, cùng kỳ 32%). Tỷ lệ doanh số bán của các công ty ô tô có doanh số từ 50,000 đến 150,000 chiếc là 30% (tháng trước 25%, cùng kỳ 38%), trong khi tỷ biến giữa 10,000 và 50,000 chiếc cũng ở mức 30% (tháng trước 25%, cùng kỳ 26%).
Tồn kho: Do sản xuất của các nhà sản xuất trong tháng 4 diễn ra mạnh mẽ, tồn kho bán buôn trong tháng 4 thấp hơn sản xuất 40,000 chiếc, trong khi toàn bộ tồn kho trong kênh phân phối trong tháng 4 cũng cao hơn doanh số bán lẻ 10,000 chiếc. Tổng tồn kho ô tô trong tháng 4 tăng 50,000 chiếc (so với 1 tháng trước tăng 40,000 chiếc). Trong năm 2023, tổng tồn kho toàn ngành tăng 120,000 chiếc (năm ngoái trong 4 tháng giảm 410,000 chiếc, năm 2023 giảm 150,000 chiếc, năm 2022 giảm 100,000 chiếc, năm 2021 giảm 660,000 chiếc, năm 2020 giảm 520,000 chiếc), đã thay đổi tình trạng giảm tồn kho liên tục trong 5 năm trước đây trong 4 tháng đầu năm. Xe năng lượng mới: Trong tháng 4, sản xuất xe năng lượng mới đạt 1,151,000 chiếc, tăng 40,3% so với năm trước, nhưng giảm 1,5% so với tháng trước; tổng sản xuất từ tháng 1 đến tháng 4 đạt 4,078,000 chiếc, tăng 44,5%. Doanh số bán buôn xe năng lượng mới trong tháng 4 đã đạt 1,133,000 chiếc, tăng 40,2% so với năm trước và tăng 0,3% so với tháng trước; tổng doanh số từ tháng 1 đến tháng 4 đạt 3,981,000 chiếc,tăng 42,1%. Doanh số bán lẻ trong tháng 4 của xe năng lượng mới đạt 905,000 chiếc, tăng 33,9% so với năm trước nhưng giảm 8,7% so với tháng trước; doanh số tích lũy từ tháng 1 đến tháng 4 đạt 3,324,000 chiếc, tăng 35,7%. Xuất khẩu xe năng lượng mới đạt 189,000 chiếc, tăng 44,2% và tăng 31,6% so với tháng trước; tổng xuất khẩu từ tháng 1 đến tháng 4 đạt 590,000 chiếc, tăng 26,7%.
1) Bán buôn: Trong tháng 4, tỷ lệ bán buôn của các thương hiệu xe năng lượng mới đạt 51,7%, tăng 11 điểm phần trăm so với tháng 4 năm 2024. Trong tháng 4, tỷ lệ thâm nhập của xe năng lượng mới của các thương hiệu tự sản xuất đạt 66%; tỷ lệ thâm nhập của xe năng lượng mới trong phân khúc xe sang là 38%; trong khi tỷ lệ thâm nhập của xe năng lượng mới trong các thương hiệu liên doanh chỉ đạt 7%. Doanh số bán buôn xe điện thuần trong tháng 4 đạt 719,000 chiếc, tăng 49,2% so với năm trước và tăng 1,5% so với tháng trước; trong khi doanh số bán buôn của xe điện hybrid đạt 322,000 chiếc, tăng 21,7% so với năm trước nhưng giảm 3,2% so với tháng trước; doanh số bán buôn xe hybrid range extender là 92,000 chiếc, tăng 49,3% so với năm trước, nhưng tăng 3,8% so với tháng trước. Trong cấu trúc bán buôn xe năng lượng mới tháng 4: xe điện thuần chiếm 63,5%, xe hybrid hẹp chiếm 28,4%, xe hybrid range extender chiếm 8,1%, trong khi tháng 4 năm 2024 tỷ lệ này là 60%, 33% và 7%. Trong cấu trúc bán buôn tổng thể trong năm 2024: xe điện thuần chiếm 69%, xe hybrid hẹp 23% và xe hybrid range extender 8%. Doanh số bán buôn ô tô điện kiểu B trong tháng 4 đạt 202,000 chiếc, tăng 20% so với năm trước nhưng giảm 7% so với tháng trước, chiếm 28% trong tổng doanh số xe điện thuần, giảm 7 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái. Thị trường ô tô điện giá rẻ kiểu A00+A0 đang diễn ra phát triển tốt, trong đó doanh số bán buôn xe điện giá rẻ kiểu A00 đạt 151,000 chiếc, tăng 94% so với năm trước và tăng 10% so với tháng trước, chiếm 21% trong tổng doanh số xe điện thuần, tăng 5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái; doanh số xe điện giá rẻ kiểu A0 là 181,000 chiếc, chiếm 25% trong tổng doanh số xe điện thuần, tăng 3 điểm phần trăm; doanh số xe điện kiểu A là 165,000 chiếc, chiếm 23%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với năm trước; sự tăng trưởng của ngành xe điện giá rẻ đang bền vững và chỉ có sự phổ biến của xe điện giá rẻ mới thực sự có thể kéo theo sự phát triển của thị trường xe. Trong tháng 4, có 15 mẫu xe có doanh số bán buôn trên 20,000 chiếc (tháng trước là 20 mẫu), trong đó có BYD Song (84,088 chiếc), Seagull (55,028 chiếc), Hongguang MINI (36,337 chiếc), Geely Star Wish (36,270 chiếc), Model Y (33,960 chiếc), Xiaomi SU7 (28,585 chiếc), Wuling Bingo (25,294 chiếc), Qin L (25,201 chiếc), Model 3 (24,499 chiếc), Xingyue (24,083 chiếc), Chery Tiggo 8 (23,887 chiếc), Volkswagen Passat (21,882 chiếc), BYD Yuan (20,623 chiếc) và BYD Qin (20,619 chiếc), cũng như Nissan Sylphy (20,233 chiếc). Xe năng lượng mới đóng góp 9 vị trí doanh số trên tổng số ô tô bán ra, những mẫu xe chạy xăng chủ lực gần đây như Xingyue, Tiggo 8, Passat, Langyi và Xuan Yi đều có doanh số tốt trong nước.
2) Doanh số bán lẻ: Trong tháng 4, xe năng lượng mới trong tổng số ô tô bán ra trong nước có tỷ lệ thâm nhập 51,5%, tăng 7 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong doanh số tiêu thụ tháng 4, tỷ lệ thâm nhập của xe năng lượng mới trong các thương hiệu tự sản xuất là 72,8%; trong phân khúc xe sang là 23,5%; và trong các thương hiệu liên doanh chỉ đạt 6,8%. Nhìn từ tỷ lệ doanh số bán lẻ xe năng năng mới hàng tháng, tỷ lệ doanh số bán lẻ của xe năng lượng mới trong các thương hiệu tự sản xuất trong tháng 4 đạt 73%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với năm trước; tỷ lệ của các thương hiệu liên doanh là 3,4%, giảm 1,5 điểm phần trăm so với năm trước; tỷ lệ của các thương hiệu mới nổi là 19,4%, các thương hiệu như Xpeng, Li Auto, Xiaomi, v.v. đã thúc đẩy tỷ lệ của các thương hiệu mới nổi tăng lên 3,6 điểm phần trăm so với năm trước; tỷ lệ của Tesla là 3,2%, giảm 1,5 điểm phần trăm.
3) Xuất khẩu: Trong tháng 4, xuất khẩu xe năng lượng mới đạt 189,000 chiếc, tăng 44,2% so với năm trước và tăng 31,6% so với tháng trước. Tỷ lệ xuất khẩu trong tổng số xuất khẩu ô tô đạt 44,6%, tăng 14 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xe điện chiếm 65% trong xuất khẩu năng lượng mới (năm trước là 81%), xe điện giá rẻ kiểu A00+A0 trong xuất khẩu năng lượng mới chiếm 33% (năm trước cũng ở mức 33%). Cùng với việc các thương hiệu xe năng lượng mới của Trung Quốc ngày càng được thị trường nước ngoài chấp nhận, xu hướng tăng trưởng xuất khẩu dẫn đến vị thế ngày càng mạnh mẽ của các thương hiệu từ Trung Quốc, trong đó xe hybrid chiếm 33% trong xuất khẩu năng lượng mới (năm trước là 19%). Mặc dù gần đây có sự ảnh hưởng của một số yếu tố từ các quốc gia bên ngoài, nhưng xuất khẩu xe hybrid của Trung Quốc đến các quốc gia đang phát triển vẫn tăng trưởng nhanh chóng và có triển vọng tốt. Trong tháng 4, các công ty xuất khẩu xe năng lượng mới xuất sắc gồm BYD (72,405 chiếc), Tesla Trung Quốc (29,728 chiếc), Chery (21,323 chiếc), Volvo Asia-Pacific (7,236 chiếc), SAIC GM Wuling (6,835 chiếc), Geely (6,750 chiếc), Li Auto (6,086 chiếc), SAIC Passenger cars (5,808 chiếc), Beam Motor (4,880 chiếc), Polestar (3,787 chiếc), Xpeng (3,702 chiếc), Great Wall Motor (3,691 chiếc), Dongfeng Motor (3,627 chiếc), Changan (3,219 chiếc), FAW Hongqi (1,958 chiếc), GAC Aion (1,463 chiếc), Changan Mazda (1,241 chiếc), Seres Hubei (1,231 chiếc), Zhirun Auto (1,125 chiếc), Jiangsu Yueda Kia (714 chiếc), 江淮汽车(482 chiếc), 华晨宝马(343 chiếc), 东风本田(304 chiếc), 江铃汽车(298 chiếc), 一汽奔腾(259 chiếc). Các hãng khác cũng có xuất khẩu xe năng lượng mới đạt quy mô nhất định. Trong việc xây dựng hệ thống nước ngoài, một số thương hiệu tự sản xuất có tỷ lệ CKD xuất khẩu cao, đặc biệt là Haima Motor với tỷ lệ CKD xuất khẩu 100% và Great Wall Motor đạt 29%, Jiangling Motor 21%, BYD 5%, việc chuyển dịch từ xuất khẩu xe hoàn chỉnh sang CKD và xây dựng hệ thống sản xuất nội địa đã thể hiện được năng lực tốt của Haima, Great Wall, Jiangling và BYD. Dựa trên dữ liệu giám sát doanh số bán lẻ tại thị trường nước ngoài của các thương hiệu tự sản xuất, tỷ lệ xe điện giá rẻ kiểu A0 đã từng đạt gần 50%, là lực lượng chính trong xuất khẩu của các thương hiệu tự sản xuất. Các sản phẩm xe điện nhỏ gọn của các thương hiệu tự sản xuất, như SAIC và các thương hiệu khác, đã thể hiện tốt tại thị trường châu Âu, nhưng gần đây do các biện pháp thuế được áp dụng, có thể sẽ định hình mức giá bán tối thiểu, điều này cho thấy xe điện nhỏ gọn là nằm ở trung tâm của sự cạnh tranh xe điện toàn cầu, chúng ta cần theo kịp chính sách thuế và các chính sách liên quan đến việc lái xe C7 cho các xe điện nhỏ gọn, khuyến khích sự phát triển của xe điện nhỏ gọn, để đảm bảo rằng xe điện của Trung Quốc có thể bền vững xuyên suốt ra thế giới. Trong phân khúc xe dùng năng lượng, xe hybrid nội địa, nhờ vào ưu thế về mức tiêu thụ nhiên liệu thấp và khoảng cách di chuyển dài, đã ngày càng có vị thế nổi bật trong việc phân chia nhu cầu từ thị trường xe xăng ở nước ngoài.
4) Công ty ô tô : Trong tháng 4, tổng đường đi của các công ty sản xuất ô tô năng lượng mới đặc biệt mạnh mẽ, BYD và xe điện với hybrid đều khẳng định vị trí dẫn đầu của thương hiệu tự sản xuất trong xe năng lượng mới; việc sản xuất ô tô hybrid kiểu hẹp như BYD, Geely và Chery, đều duy trì sức mạnh tốt. Về việc đưa sản phẩm ra thị trường, với chính sách “đa náo động”, các công ty tự sản xuất trong lĩnh vực năng lượng mới đã tăng cường sự hiện diện trên thị trường của mình, có 17 công ty đã vượt qua doanh số bán buôn hàng tháng trên 10,000 chiếc (tăng 3 công ty so với cùng kỳ năm trước, giảm 1 công ty so với tháng trước), chiếm 90,9% trong tổng khối lượng ô tô năng lượng mới (tháng trước là 92%, cùng kỳ năm ngoái là 86%). Một số hãng xe hàng đầu như BYD (372,615 chiếc), Geely (125,563 chiếc), SAIC GM Wuling (75,610 chiếc), Tesla Trung Quốc (58,459 chiếc), Chery (55,023 chiếc), Changan (54,756 chiếc), Li Auto (41,039 chiếc), Xpeng (35,045 chiếc), Li Xiang (33,939 chiếc), Great Wall (28,809 chiếc), Xiaomi Auto (28,585 chiếc), Seres (27,048 chiếc), NIO (23,900 chiếc), Dongfeng (23,815 chiếc), GAC Aion (23,408 chiếc) và SAIC (11,325 chiếc), Faw (10,239 chiếc). Các thương hiệu tự sản xuất đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong mảng xe năng lượng mới, nơi mà các công ty như BYD, Geely, Changan và SAIC GM Wuling có hoạt động bán lẻ xe năng lượng mới xuất sắc tại nước.
5) Thương hiệu mới: Trong tháng 4, tỷ lệ bán lẻ của các thương hiệu mới đạt 19,4%, tăng 3,6 điểm phần trăm so với năm trước. Tình hình giữa các thương hiệu mới đã có sự phân hóa, trong đó các thương hiệu như Xpeng, Xiaomi và Li Auto đã đóng góp 5,2 điểm vào tỷ lệ thị phần. Các thương hiệu ô tô độc lập thuộc các tập đoàn truyền thống mạnh mẽ đã thể hiện khá tốt trong lĩnh vực xe năng lượng mới, với tỷ lệ 12,6%, tăng 0,8 điểm phần trăm so với năm trước. Các thương hiệu năng lượng mới tự phát triển như Deep Blue, Avita, Fang Chengbao, Jihu và Lantu đều thể hiện rất tốt.
6) Hybrid thông thường: Doanh số bán buôn của xe hybrid thông thường tháng 4 đạt 69,400 chiếc, tăng 6% so với năm trước, nhưng giảm 19% so với tháng trước. Trong đó, sản phẩm của FAW Toyota đạt 32,221 chiếc, GAC Toyota 24,306 chiếc, Changan Ford 3,170 chiếc, Dongfeng Honda 2,835 chiếc, Dongfeng Auto 2,110 chiếc, GAC Trumpchi 1,955 chiếc, GAC Honda 1,820 chiếc, Geely 652 chiếc, Dongfeng Nissan 173 chiếc. Doanh số của các thương hiệu tự sản xuất đang dần khôi phục.
2. Triển vọng thị trường ô tô tháng 5 năm 2025
Tháng 5 năm 2025 có tổng cộng 19 ngày làm việc, giảm 2 ngày so với tháng 5 năm trước, đặc biệt là Lễ hội đèn lồng diễn ra vào ngày 31 tháng 5, điều này không thuận lợi cho sự phát triển đồng bộ của sản xuất và tiêu thụ ô tô. Với việc thực hiện chính sách đổi xe cũ lấy mới, thị trường tháng 5 năm 2024 gradually phục hồi, trong tháng 5 năm nay, mức nền sẽ tương đối cao. Dưới tác động của chính sách thúc đẩy tiêu dùng của nhà nước và sự phổ biến của các chính sách tương ứng của nhiều tỉnh thành, các hoạt động xe triển lãm tháng 5 sẽ tiếp tục tạo ra không khí tích cực cho thị trường và sẽ đẩy nhanh lưu lượng khách hàng. Trong tình hình các sản phẩm thương hiệu đang ngày càng phong phú, sức mạnh của việc ra mắt các mẫu xe mới tại triển lãm ô tô Thượng Hải tương đối ôn hòa, các thương hiệu tự sản xuất mới chủ yếu đưa ra các mẫu xe trung và cao cấp, trong khi các thương hiệu liên doanh khai trương các mức giá hấp dẫn cho xe năng lượng mới. Dự kiến, trong tháng 5, thị trường ô tô sẽ phát triển tương đối ổn định. Tuy nhiên, do sự thay đổi mạnh mẽ của môi trường bên ngoài, và sự gia tăng không kỳ vọng của mức thuế nhập khẩu trên diện rộng cũng tạo nên áp lực bên ngoài lớn. Tâm lý tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng đến một mức độ nhất định. Tuy nhiên, các ảnh hưởng này sẽ dần hiện rõ trong các tháng thị trường tiếp theo, với chính sách khuyến khích tiêu dùng nội địa của nhà nước, do đó, xu hướng phát triển của chúng tôi ngày càng rõ ràng dựa trên “tiêu dùng nội địa và tiêu dùng bên ngoài”, tác dụng của thị trường ô tô trong nước trong việc ổn định cầu cũng đang dần thể hiện, bình thường hóa môi trường xuất khẩu tại các quốc gia và khu vực có nhu cầu kinh tế tương đối nhìn chung mong muốn trở thành động lực tăng trưởng mới cho các công ty. Vào tháng 4, chỉ số quản lý mua sắm (PMI) của ngành sản xuất Trung Quốc đạt 49,0%, giảm 1,5 điểm phần trăm so với tháng trước. Tuy nhiên, PMI Tổng hợp của Trung Quốc vào tháng 4 giữ mức 50,4, thấp hơn 0,8 điểm so với tháng trước, vẫn nằm ở dải mở rộng. Những thay đổi trong môi trường thương mại bên ngoài vẫn chứa đựng sự không chắc chắn đối với thị trường ô tô. Vào kỳ nghỉ “Ngày Lao Động”, nhu cầu đi ô tô dự kiến sẽ tăng lên, với việc tự lái xe và thuê xe trở thành các hình thức di chuyển cá nhân và tiết kiệm chi phí được nhiều người lựa chọn hơn. Sự kết hợp giữa xe điện và القيادة tự động mang lại nhiều niềm vui khi lái xe hơn, không gian trải nghiệm độc lập trong cabin thông minh, thói quen sử dụng năng lượng của những người dùng xe năng lượng mới ngày càng trưởng thành và tự tin, tất cả đều có lợi cho việc nâng cao sự nhiệt tình trong tiêu thụ xe năng lượng mới, đồng thời cũng xóa bỏ lo ngại của người tiêu dùng xe chạy xăng về việc chuyển đổi. Tỷ lệ xuất khẩu của ô tô Trung Quốc sang Mỹ là rất nhỏ, đặc biệt là các thương hiệu tự sản xuất hoàn toàn không được bán tại Mỹ, do đó, các hãng xe thương hiệu tự sản xuất của Trung Quốc sẽ không bị ảnh hưởng bởi mức thuế nhập khẩu của Mỹ; hiện tại, tỷ lệ doanh số xe tự sản xuất tại thị trường Nga vẫn được duy trì ở mức cao trên 55%, áp lực giảm sút xuất khẩu không lớn. Nhưng sự thiếu thốn của các dòng sản phẩm mới trong tháng 4 tại phòng trưng bày ô tô Thượng Hải đợt này, mà cho thấy ít xe chạy xăng và xe nhỏ, và nhiều xe điện cỡ lớn cho thấy những rủi ro rõ ràng đối với chiến lược phát triển bền vững của ô tô Trung Quốc trong tương lai.
3. Doanh thu của ngành ô tô trong quý 1 năm 2025 vượt 2.4 triệu tỷ đồng, tăng 8%, chi phí tăng 9%, lợi nhuận giảm 6%, tỷ suất lợi nhuận 3,9%, tỷ suất lợi nhuận tiếp tục sụt giảm.
Nhờ vào chính sách đổi cũ lấy mới được mở rộng, các hình thức tiêu dùng đa dạng không ngừng đổi mới đã dẫn đến hiệu quả tốt cho các ngành tương ứng và các chuỗi cung ứng có liên quan. Lợi nhuận của các công ty công nghiệp trong quý 1 đã ghi nhận có sự tăng trưởng, nhưng ngành công nghiệp ô tô vẫn nằm trong tình trạng khó khăn. Trong quý 1, lợi nhuận của các công ty công nghiệp lớn đạt 0,8%, đã có sự điều chỉnh khi so với con số -3,3% ở năm ngoái. Trong tháng 3, lợi nhuận của các công ty lớn đã chuyển từ giảm -0,3% sang tăng 2,6%, cải thiện chắc chắn trong một tháng. Được thúc đẩy bởi chính sách bổ sung cho việc thay thế ô tô, sản lượng ô tô trong quý 1 năm 2025 đạt 7,51 triệu chiếc, doanh thu của ngành ô tô đạt 240,22 tỷ đồng, tăng 8% so với năm trước; chi phí đạt 211,19 tỷ đồng, tăng 9%; lợi nhuận đạt 9,47 tỷ đồng, giảm 6% so với năm trước; tỷ suất lợi nhuận của ngành ô tô đạt 3,9%, so với mức trung bình 5,6% của lợi nhuận ngành công nghiệp hạ nguồn, tỷ suất lợi nhuận vẫn ở mức thấp. Trong tháng 3, doanh thu của ngành ô tô đạt 92,14 tỷ đồng, tăng 7% so với năm trước; chi phí đạt 81,42 tỷ đồng, tăng 9%; lợi nhuận đạt 3,27 tỷ đồng, giảm 28% so với cùng kỳ; tỷ suất lợi nhuận của ngành ô tô là 3,5%. Ngành ô tô cần có những biện pháp hiệu quả trong việc giảm chi phí và nâng cao hiệu quả, tăng cường kiểm soát chi phí. Gần đây, với sự gia tăng quy mô sản xuất, PPI giảm, đồng thời chi phí sản xuất lithium carbonate giảm, áp lực lợi nhuận của các công ty sẽ nặng nề hơn, trong khi động cơ đang dần chuyển sang pin, lợi nhuận của các công ty ô tô có thể sẽ tiếp tục giảm. Các chính phủ và các cấp chính quyền đang tích cực duy trì tiêu thụ xe chạy xăng, thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện chính sách đổi cũ lấy mới, mong muốn “dầu và điện vốn là một”, tin rằng tương lai, tình hình của ngành ô tô sẽ dần tiến triển một cách ổn định.
4. Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2025, Trung Quốc giữ 33% thị phần ô tô thế giới.
Trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2025, tổng doanh số ô tô thế giới đạt 22,64 triệu chiếc, tăng 5% so với năm trước. Trong thời gian này, Trung Quốc đã đạt được 33% thị phần toàn cầu vào đầu năm 2025, là do các công ty ô tô Trung Quốc có doanh số đầu năm có mức thấp do ảnh hưởng của Tết Nguyên Đán. Khi chính sách hỗ trợ bắt đầu có hiệu lực, vào tháng 3, thị trường ô tô Trung Quốc đã có dấu hiệu tăng trưởng. Do sự tăng trưởng bất thường của thị trường ô tô Mỹ trong tháng 3, doanh số ô tô thế giới trong tháng 3 đạt 8,75 triệu chiếc, tăng 5% so với năm trước. Doanh số ô tô thế giới trong tháng 3 năm 2025 vẫn thấp hơn 5% so với mức cao nhất của tháng 3 năm 2018 và nằm ở mức giữa của các năm. Các thương hiệu tự sản xuất của Trung Quốc đã tăng cường thị phần toàn cầu的一大改善。BYD, Geely, Chery, và Changan đều là những thương hiệu nổi bật. Ngoài ra, các thương hiệu quốc tế khác đã giảm mạnh thị phần theo tỷ lệ lớn vào năm 2024, ngoài hãng Suzuki và Tata đã đạt kết quả tốt tại thị trường Ấn Độ. Vào đầu năm 2025, do ảnh hưởng của Tết Nguyên Đán ở Trung Quốc và rủi ro thuế từ Mỹ, một số hãng xe quốc tế đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Thời gian gần đây, sự phát triển nhanh chóng của xe năng lượng mới ở Trung Quốc đã dẫn đến các công ty ô tô tự sản xuất như BYD đứng thứ 6 thế giới và Geely đứng thứ 9, sự phát triển điện hóa cũng đã khiến một số hãng xe quốc tế phải di chuyển.
5. Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2025, Trung Quốc chiếm 68% thị phần xe năng lượng mới trên thế giới, đóng góp 84% về gia tăng.
Tổng doanh số toàn cầu trong khoảng thời gian này đạt 22,64 triệu chiếc ô tô, trong khi doanh số xe năng lượng mới đạt 4,46 triệu chiếc. Vào thời điểm này, tỷ lệ thị phần của xe năng lượng mới đạt 19,7%, trong đó tỷ lệ xe điện thuần đạt 12,9%, tỷ lệ xe hybrid lắp ráp đạt 6,8%, và tỷ lệ hybrid thông thường chiếm 7%. Trong các thị trường chính mà có thể được thống kê nước ngoài, nhìn chung các thương hiệu tự sản xuất xe năng lượng mới đang có xu hướng mạnh mẽ. Vào năm 2021, thị phần xe năng lượng mới của Trung Quốc xuất khẩu ra thị trường nước ngoài đã đạt 1,8%; đến năm 2022, tỷ lệ này đã tăng lên 4,7%, tăng 2,9 điểm phần trăm; vào năm 2023 tăng lên 7,9%, tăng 3,2 điểm phần trăm; đến năm 2024, thị phần xe năng lượng mới tự sản xuất ở nước ngoài đã đạt 9,5%; đến tháng 3 năm 2025, tỷ lệ xe năng lượng mới tự sản xuất trong lĩnh vực xe năng lượng mới xuất khẩu ra nước ngoài đạt 11,7%. Do sự tương đối kém của xe năng lượng mới tại châu Âu và Mỹ, tỷ lệ xe năng năng mới tự sản xuất ở thị trường nước ngoài vẫn đang ở mức cao. Tỷ lệ xe năng lượng mới trong tổng thể thị trường ô tô đang có xu hướng mạnh mẽ, tỷ lệ này đã đạt 13% vào năm 2022, 16% vào năm 2023, 19,2% vào năm 2024, và chỉ đạt 19% trong quý 1 năm 2025. Trong quý 1 năm 2025, tỷ lệ thị phần xe năng lượng mới của Trung Quốc đạt 46%, trong khi Đức đạt 24%, Na Uy đạt 75%, Mỹ chỉ đạt 9,7%, Nhật Bản chỉ đạt 2%. Do đó, sự phát triển không đồng đều của thị trường ô tô năng lượng mới toàn cầu là rất đáng kể. Gần đây, tốc độ tăng trưởng của xe năng lượng mới của Trung Quốc đã vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình toàn cầu. Vào năm 2020, tỷ lệ ô tô năng lượng mới tại Trung Quốc ở mức cao, và duy trì ở mức 52,4% vào năm 2021; trong năm 2022, tỷ lệ này đã vượt 63%; trong năm 2023, đã nhận thức được khoảng 64%, và trong năm 2024, tiếp tục tăng tốc lên mức 70,1%; trong quý 1 năm 2024, tỷ lệ này đạt 62,3%, và trong quý 1 năm 2025, thị phần xe năng lượng mới của Trung Quốc vẫn ở mức 67,7%, tăng 5,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tại hiện trường của thị trường xe điện trong thế giới, tỷ lệ thị phần xe điện nguyên thủy của Trung Quốc diễn biến khá ổn định, với tỷ lệ chiếm khoảng 60% trong giai đoạn 2017-2018; trong những năm 2019-2020, tỷ lệ này đã giảm một chút và chỉ đạt 48,5% vào năm 2020; đến năm 2022, tỷ lệ này đã tăng lên 65,9%; trong năm 2023-2024 giảm dưới 65% và trong quý 1 năm 2025, Trung Quốc vẫn giữ được thị phần 62,9%, tăng 4,1 điểm phần trăm so với quý 1 năm 2024. Tổng gia tăng của thị trường xe năng lượng mới toàn cầu chủ yếu đến từ Trung Quốc. Trong 3 tháng đầu năm 2025, mức gia tăng và giảm trong phân khúc xe năng lượng mới toàn cầu Trung Quốc đóng góp 84%, trong khi Đức và Pháp đóng góp 5% cho tăng trưởng, Anh đóng góp 3%, trong khi đó các quốc gia khác đang có dấu hiệu giảm sút về mặt gia tăng. Thị trường ô tô Trung Quốc hiện đang là điểm nóng trong cuộc cạnh tranh xe điện năng lượng mới toàn cầu.
6. Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2025, xuất khẩu ô tô của Trung Quốc đạt 1,54 triệu chiếc, tăng 16%, thể hiện sức mạnh tương đối tốt.
Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2025, Trung Quốc đã xuất khẩu 1,54 triệu chiếc ô tô, tăng 16% so với năm trước; trong tháng 3, xuất khẩu ô tô đạt 570,000 chiếc, cũng tăng 16% so với năm trước và nhìn chung thể hiện sự mạnh mẽ về mặt tiêu thụ; động lực chính vẫn là sự gia tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm Trung Quốc và sự gia tăng nhẹ của thị trường ở các quốc gia phía Nam. Trong tháng 3 năm 2025, 10 quốc gia có xuất khẩu xe ô tô nhiều nhất bao gồm: Mexico 52,646 chiếc, Nga 41,741 chiếc, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất 36,490 chiếc, Ả Rập Xê Út 25,535 chiếc, Australia 24,824 chiếc, Brazil 24,790 chiếc, Bỉ 19,810 chiếc, Philippines 16,549 chiếc, Thái Lan 15,153 chiếc, Anh 14,754 chiếc; trong tháng 3, các nước có số lượng tăng cao của ô tô xuất khẩu từ Trung Quốc bao gồm: Các Tiểu vương quốc 14,117 chiếc, Australia 10,023 chiếc, Mexico 8,037 chiếc, Kazakhstan 6,025 chiếc và Israel 5,908 chiếc. Trong số 10 quốc gia hàng đầu về tổng xuất khẩu trong 3 tháng đầu năm, Mexico đạt 138,643 chiếc, Các Tiểu vương quốc 107,908 chiếc, Nga 99,333 chiếc, Ả Rập Xê Út 68,901 chiếc, Bỉ 68,356 chiếc, Australia 60,941 chiếc, Brazil 52,135 chiếc, Anh 51,820 chiếc, Philippines 47,073 chiếc và Thổ Nhĩ Kỳ 41,291 chiếc; trong đó các quốc gia có sự tăng trưởng trong tổng xuất khẩu lớn nhất bao gồm Các Tiểu vương quốc 52,820 chiếc, Mexico 28,200 chiếc, Australia 20,173 chiếc, Israel 17,627 chiếc, và Ả Rập Xê Út 16,437 chiếc. Tỷ lệ đóng góp gia tăng của 5 nước hàng đầu vào tổng xuất khẩu là 62%, trong đó Các Tiểu vương quốc có đóng góp lớn. Tháng 3 năm 2025, tổng xuất khẩu xe năng lượng mới của Trung Quốc đến các nước hàng đầu gồm: Mexico 23,976 chiếc, Brazil 19,037 chiếc, Bỉ 18,398 chiếc, Thái Lan 14,467 chiếc, Philippines 12,589 chiếc, Anh 11,161 chiếc, Australia 10,512 chiếc, Ấn Độ 8,978 chiếc, Israel 8,388 chiếc và Thổ Nhĩ Kỳ 6,773 chiếc; 5 nước có số lượng xuất khẩu xe năng lượng mới tăng cao trong tháng 3 gồm: Mexico 16,963 chiếc, Australia 5,182 chiếc, Israel 4,132 chiếc, Philippines 3,502 chiếc và Jordan 3,274 chiếc. Tổng xuất khẩu xe năng lượng mới của Trung Quốc trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 3 đạt: Bỉ 64,560 chiếc, Mexico 48,762 chiếc, Brazil 35,233 chiếc, Philippines 33,371 chiếc, Anh 32,740 chiếc, Thổ Nhĩ Kỳ 32,231 chiếc, Thái Lan 31,741 chiếc, Australia 25,923 chiếc, Các Tiểu vương quốc 23,407 chiếc và Ấn Độ 20,214 chiếc; trong số 5 nước có mức tăng trưởng xe năng lượng mới lớn nhất trong giai đoạn này là Mexico (35,451 chiếc), Thổ Nhĩ Kỳ (26,007 chiếc), Israel (13,709 chiếc), Indonesia (7,522 chiếc), và Australia (7,043 chiếc). Xuất khẩu xe năng lượng mới của Trung Quốc trong năm 2025 đã vượt qua dự kiến, đang dần chuyển sang hướng phát triển chất lượng cao và mở rộng sang thị trường các nước phát triển và khu vực Trung Đông, chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Tây Âu và châu Á. Xuất khẩu xe chạy xăng tại thị trường Nga có dấu hiệu giảm, nhưng do lượng xe xuất khẩu vào Nga mà chúng tôi giám sát không bị giảm nhiều, trong đó các công ty ô tô lớn bao gồm BYD, Geely và Changan vẫn có hiệu suất tương đối tốt.
7. Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2025, xe nhập khẩu của Trung Quốc giảm 39% xuống 90,000 chiếc.
Lượng ô tô nhập khẩu của Trung Quốc liên tục giảm từ 1,24 triệu chiếc vào năm 2017 với tỷ lệ hàng năm khoảng 8% và đến năm 2023 chỉ còn 800,000 chiếc. Số lượng ô tô nhập khẩu dự kiến sẽ giảm xuống còn 700,000 chiếc trong năm 2024, giảm 12% so với năm trước. Trong 3 tháng đầu năm 2025, số lượng ô tô nhập khẩu là 95,000 chiếc, giảm 39% so với năm trước, đạt mức giảm cực lớn cho giai đoạn này. Trong tháng 3, số lượng ô tô nhập khẩu giảm xuống còn 39,000 chiếc, tiếp tục giảm 27%. Áp lực giảm nhập khẩu trong tháng 3 rất lớn. 10 quốc gia hàng đầu về nhập khẩu trong tháng 3 bao gồm: Nhật Bản 17,503 chiếc, Đức 6,828 chiếc, Slovakia 6,485 chiếc, Anh 3,937 chiếc, Mỹ 2,350 chiếc, Mexico 518 chiếc, Thụy Điển 353 chiếc, Áo 157 chiếc, Ba Lan 154 chiếc, Hàn Quốc 153 chiếc. Tháng 3, số lượng tăng lớn nhất là Slovakia (+401 chiếc), Nhật Bản (+300 chiếc), Ba Lan (+107 chiếc), Hàn Quốc (+60 chiếc) và Bỉ (+29 chiếc). Trong 3 tháng đầu năm 2025, Nhật Bản xuất nhập nhiều nhất với 30,517 chiếc, theo sau là Đức 23,695 chiếc, Slovakia 17,733 chiếc, Mỹ 8,871 chiếc, Anh 8,371 chiếc, Mexico 1,443 chiếc, Thụy Điển 1,371 chiếc, Áo 695 chiếc, Hàn Quốc 359 chiếc và Ý 266 chiếc. Những quốc gia có số lượng tăng cao nhất là Slovakia 1,931 chiếc, Bỉ 98 chiếc, Ba Lan 85 chiếc, Việt Nam 40 chiếc, và Tây Ban Nha 23 chiếc. Với sự phát triển mạnh mẽ của ngành sản xuất ô tô tại Trung Quốc, chuyển đổi sang xe điện đã làm thay đổi cấu trúc cầu trên thị trường, khiến nhu cầu về xe chạy xăng liên tục suy giảm, nhu cầu về xe hơi nhập khẩu chạy xăng cũng rõ rệt giảm sút. Do sự giảm đáng kể trong những năm gần đây, số lượng xe nhập khẩu từ Mỹ vào Trung Quốc đã giảm nhanh từ 280,000 chiếc vào năm 2017 xuống còn 109,000 chiếc vào năm 2024. Trong 3 tháng đầu năm 2025, xe nhập khẩu từ Mỹ giảm xuống còn 8,870 chiếc, giảm 66% so với cùng kỳ, và tháng 3 vẫn đang trong mức giảm. Với các quan hệ quốc tế ngày càng trở nên phức tạp, chúng ta cần chuẩn bị và thiết lập thêm nhiều mẫu hình nhập khẩu phức tạp, duy trì quy mô hợp lý trong nhập khẩu ô tô để đảm bảo an toàn cho chuỗi cung ứng quốc tế.