Được biết, John Williams, người đứng thứ ba trong hệ thống Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và là Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York có quyền bỏ phiếu trong FOMC trong suốt nhiệm kỳ của mình, đã phát biểu vào thứ Tư rằng, cú sốc giá cả trong thời gian đại dịch COVID-19 đã hoàn toàn thay đổi nhận thức và cảm nhận của người tiêu dùng Mỹ về lạm phát. Các nhà hoạch định chính sách không thể coi nhẹ rằng công chúng luôn có những kỳ vọng vững chắc về mức độ tăng giá trong tương lai.
Williams đã cảnh báo rằng, sau đại dịch, bất kỳ sự kiện vĩ mô tiêu cực nào đều có thể dễ dàng kích thích cảm giác hoảng loạn về lạm phát trong người tiêu dùng. Các nhà hoạch định chính sách không chỉ nên tập trung vào kỳ vọng dài hạn về giá tiêu dùng tăng trong tương lai, mà cũng cần chú ý đến “toàn bộ đường cong lạm phát” để tránh tình trạng lạm phát trở nên kéo dài và tăng cao hơn.
“Năm năm qua thực sự đã thay đổi cách nhìn của mọi người về lạm phát,” Williams nói vào thứ Tư trong một hội nghị do Ngân hàng Trung ương Nhật Bản tổ chức tại Tokyo. Ông cũng bổ sung rằng, mục tiêu chính sách không chỉ nên xác định kỳ vọng lạm phát dài hạn mà “còn phải xác định toàn bộ đường cong lạm phát”.
“Tình huống mà bạn muốn tránh nhất là để lạm phát trở nên dai dẳng, vì lạm phát dai dẳng cuối cùng có thể phát triển thành hiện tượng lạm phát vĩnh viễn.” Ông cho biết trong bài phát biểu tại hội nghị.
Vào thứ Ba, hội nghị ngân hàng trung ương hàng năm kéo dài hai ngày, do Ngân hàng Trung ương Nhật Bản và tổ chức tư vấn của họ đồng tổ chức, đã khai mạc tại trụ sở Ngân hàng Trung ương Nhật Bản ở Tokyo. Mặc dù không có những con đường đi bộ và phong cảnh nông thôn tươi đẹp, nhưng sự kiện này vẫn được ngành tài chính đánh giá như phiên bản Nhật Bản của “Hội nghị toàn cầu ngân hàng trung ương Jackson Hole”. Những người tham dự bao gồm các học giả nổi tiếng đến từ Mỹ, châu Âu và châu Á, cũng như các quan chức quan trọng từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Ngân hàng Trung ương châu Âu, Ngân hàng Trung ương Canada và Ngân hàng Dự trữ Úc, trong đó có John Williams.
Nhiều cuộc khảo sát về hộ gia đình và người tiêu dùng tại Mỹ cho thấy, sau khi chính phủ Trump liên tục công bố các chính sách tăng thuế, quan điểm của người tiêu dùng Mỹ về nền kinh tế đã xấu đi, và kỳ vọng về mức tăng giá ngắn hạn cũng đã tăng lên, chỉ số niềm tin tiêu dùng cũng rơi xuống gần mức thấp nhất trong lịch sử.
Tuy nhiên, các chỉ số kỳ vọng lạm phát dựa trên khảo sát thị trường và khảo sát lạm phát của Ngân hàng Dự trữ New York vẫn cho thấy, kỳ vọng lạm phát dài hạn của người tiêu dùng chủ yếu quang quẩn xung quanh mục tiêu 2% của Cục Dự trữ Liên bang. Nhưng cần lưu ý rằng, như Williams đã nói, cú sốc giá cả trong thời gian đại dịch COVID-19 đã hoàn toàn thay đổi nhận thức và cảm nhận của người tiêu dùng Mỹ về lạm phát, và đây là lý do tại sao, trong bối cảnh đối mặt với cú sốc thuế, người dân Mỹ đã trở nên lo ngại nhiều hơn về kỳ vọng lạm phát trong khoảng một năm tới, họ lo ngại rằng lạm phát do đại dịch gây ra chưa hoàn toàn tan biến, cùng với cú sốc lạm phát do chính sách thuế của Trump có thể tạo ra khả năng lạm phát bùng phát trở lại giống như thời kỳ đại dịch.
Về mặt kỳ vọng lạm phát, cuộc khảo sát người tiêu dùng gần đây do University of Michigan công bố, được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 22 tháng 4 đến 13 tháng 5, cho thấy người tiêu dùng dự đoán giá ở Mỹ sẽ tăng với tốc độ 7,3% trong năm tới, mức cao nhất kể từ năm 1981; chỉ số niềm tin tiêu dùng bất ngờ giảm xuống còn 50,8, không chỉ thấp hơn mức 52,2 vào tháng 4, mà còn thiết lập mức thấp thứ hai trong lịch sử, chỉ cao hơn so với mức thấp nhất ghi nhận vào tháng 6 năm 2022.
Tuần trước, Williams đã gợi ý rằng các nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang có thể giữ nguyên lãi suất chuẩn trước tháng 7, để theo dõi tác động thực tế của các điều chỉnh chính sách thương mại và giảm thuế do Tổng thống Donald Trump lãnh đạo đối với nền kinh tế Mỹ.
Nhiều nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang, bao gồm cả Chủ tịch Powell, gần đây đã cho biết, họ đang đối mặt với nguy cơ kép từ tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và áp lực lạm phát, nhưng họ đều cho rằng chính sách tiền tệ vẫn đang ở “vị trí thích hợp”, có thể quan sát tình hình kinh tế Mỹ trước khi quyết định hành động tiếp theo.
Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Minneapolis, Neel Kashkari, gần đây đã nhấn mạnh tại một hội nghị rằng, do sự không chắc chắn trong tăng trưởng kinh tế do cuộc chiến thương mại toàn cầu mới và sự cần thiết “cấp thiết” của việc bảo vệ kỳ vọng lạm phát, Cục Dự trữ Liên bang cần hành động thận trọng. Kashkari trong bài phát biểu đã chuẩn bị trước đó cho biết: “Các cuộc đàm phán thương mại có thể mất nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm mới có thể hoàn tất.” Ông cũng đề cập rằng, thuế áp lên hàng hóa trung gian cần thời gian để truyền tải đến người tiêu dùng cuối, và theo thời gian, rủi ro kỳ vọng lạm phát mất kiểm soát có thể gia tăng.
Mặt khác, khi các quan chức Cục Dự trữ Liên bang tiếp tục phát đi tín hiệu duy trì mức lãi suất hiện tại và hai nền kinh tế lớn nhất toàn cầu là Mỹ và Trung Quốc đã đạt được đồng thuận thương mại cùng đồng ý giảm đáng kể thuế cho nhau, kỳ vọng “hạ cánh nhẹ nhàng” của nền kinh tế Mỹ đã nhanh chóng tăng cao, và các cơ quan tài chính như Goldman Sachs đã giảm mạnh tỷ lệ cược vào việc Cục Dự trữ Liên bang sẽ hạ lãi suất.
Nhóm nhà kinh tế từ Goldman Sachs hiện dự đoán Cục Dự trữ Liên bang sẽ cắt giảm lãi suất ba lần bắt đầu từ tháng 12, thay vì từ tháng 7 như trước đây; trong khi các nhà kinh tế từ Barclays dự đoán Cục Dự trữ Liên bang chỉ sẽ giảm lãi suất một lần vào năm 2025, và năm sau sẽ giảm thêm ba lần với mỗi lần 25 điểm cơ bản. Trước đó, các nhà kinh tế từ Barclays dự đoán sẽ có hai lần giảm 25 điểm cơ bản trong năm nay, vào tháng 7 và tháng 9.