Văn bản này được dịch từ “Tân Hoa Xã”, biên tập bởi Liu Jiaying.
Luật khuyến khích kinh tế tư nhân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
(Thông qua tại cuộc họp lần thứ 15 của Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu Nhân dân quốc gia lần thứ 14 ngày 30 tháng 4 năm 2025)
Mục lục
Chương I: Quy định chung
Chương II: Cạnh tranh công bằng
Chương III: Khuyến khích đầu tư và tài chính
Chương IV: Đổi mới công nghệ
Chương V: Quản lý điều hành
Chương VI: Dịch vụ bảo đảm
Chương VII: Bảo vệ quyền lợi
Chương VIII: Trách nhiệm pháp lý
Chương IX: Điều khoản thi hành
Chương I: Quy định chung
Điều 1: Để tối ưu hóa môi trường phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm các tổ chức kinh tế khác nhau tham gia cạnh tranh thị trường một cách công bằng, khuyến khích sự phát triển khỏe mạnh và sự trưởng thành của các cá nhân trong nền kinh tế tư nhân, xây dựng một hệ thống kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mức độ cao, phát huy vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân trong phát triển xã hội và kinh tế quốc dân, căn cứ vào Hiến pháp, quy định trước luật này.
Điều 2: Công việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, lấy nhân dân làm trung tâm, kiên định với hệ thống thể chế xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, đảm bảo hướng đi chính trị đúng đắn cho phát triển kinh tế tư nhân.
Nhà nước kiên quyết nâng cao và hoàn thiện sở hữu nhà nước là chủ thể, phát triển chung đa dạng các loại hình sở hữu, phân phối theo lao động là chủ yếu, cùng tồn tại nhiều phương thức phân phối, hệ thống kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cùng các chế độ kinh tế cơ bản khác.
Điều 3: Kinh tế tư nhân là một phần quan trọng trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, là lực lượng thúc đẩy hiện đại hóa kiểu Trung Quốc, là nền tảng quan trọng của phát triển chất lượng cao, là lực lượng quan trọng trong việc xây dựng một cường quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa và sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa. Việc thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững, khỏe mạnh và chất lượng cao là phương châm chính sách quan trọng lâu dài của quốc gia.
Quốc gia đã quyết định khuyến khích, hỗ trợ, dẫn dắt sự phát triển kinh tế tư nhân theo luật pháp, phát huy vai trò bảo đảm căn bản của pháp chế.
Quốc gia kiên trì nguyên tắc bình đẳng đối xử, cạnh tranh công bằng, bảo vệ ngang nhau và phát triển chung, khuyến khích sự phát triển lớn mạnh của kinh tế tư nhân. Tổ chức kinh tế tư nhân có cùng địa vị pháp lý, cơ hội thị trường và quyền phát triển như các tổ chức kinh tế khác.
Điều 4: Chính phủ Quốc vụ viện và các chính quyền địa phương cấp huyện trở lên sẽ đưa công việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân vào kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân và xã hội, thiết lập cơ chế phối hợp công tác phát triển kinh tế tư nhân, xây dựng và hoàn thiện chính sách và các biện pháp cần thiết, phối hợp giải quyết những vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế tư nhân.
Chính phủ Quốc vụ viện cơ quan phát triển và cải cách có trách nhiệm điều phối và phối hợp công việc phát triển kinh tế tư nhân. Các bộ phận liên quan khác của Chính phủ Quốc vụ viện cũng trong phạm vi trách nhiệm của mình có trách nhiệm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân.
Các bộ phận liên quan của chính quyền địa phương cấp huyện trở lên phải thực hiện công việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân theo quy định của pháp luật và theo nhiệm vụ do chính quyền địa phương quy định.
Điều 5: Các tổ chức kinh tế tư nhân và những người điều hành tổ chức đó phải hỗ trợ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kiên định với hệ thống xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, tích cực tham gia xây dựng mạnh mẽ đất nước hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.
Quốc gia tăng cường xây dựng đội ngũ lãnh đạo của các tổ chức kinh tế tư nhân, dẫn dắt tư tưởng chính trị, phát huy vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội; nuôi dưỡng và phát triển tinh thần doanh nhân, dẫn dắt người điều hành tổ chức kinh tế tư nhân thực hiện các giá trị cốt lõi xã hội chủ nghĩa, yêu nước phục vụ nghề nghiệp, tuân thủ pháp luật trong kinh doanh, đổi mới khởi nghiệp, cống hiến cho xã hội, kiên quyết trở thành người xây dựng xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, người thúc đẩy hiện đại hóa kiểu Trung Quốc.
Điều 6: Các tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành tổ chức đó khi thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh phải tuân thủ pháp luật và quy định, tuân thủ đạo đức xã hội, đạo đức thương mại, trung thực, cạnh tranh công bằng, thực hiện trách nhiệm xã hội, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động, duy trì lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng xã hội, chấp nhận sự giám sát của chính phủ và xã hội.
Điều 7: Liên minh thương mại và công nghiệp phát huy vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân khỏe mạnh và sự trưởng thành của những nhân vật kinh tế tư nhân, tăng cường giáo dục chính trị cho người điều hành tổ chức kinh tế tư nhân, dẫn dắt tổ chức kinh tế tư nhân thực hiện pháp lý trong kinh doanh, nâng cao trình độ phục vụ kinh tế tư nhân.
Điều 8: Tăng cường tuyên truyền về những thành tựu sáng tạo của các tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành tổ chức đó, hỗ trợ tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành tham gia bình chọn và khen thưởng, dẫn dắt hình thành một môi trường xã hội tôn trọng lao động, tôn trọng sáng tạo, tôn trọng doanh nhân, xây dựng một bầu không khí toàn xã hội quan tâm, ủng hộ, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân.
Điều 9: Nhà nước thiết lập hệ thống thống kê kinh tế tư nhân hoàn thiện, thống kê và phân tích tình hình phát triển kinh tế tư nhân, công bố thông tin liên quan định kỳ.
Chương II: Cạnh tranh công bằng
Điều 10: Nhà nước thực hiện hệ thống danh sách tiêu cực cho phép tham gia thị trường thống nhất toàn quốc. Các lĩnh vực không có trong danh sách này, bao gồm cả tổ chức kinh tế tư nhân cũng như các tổ chức kinh tế khác có thể tham gia thị trường một cách bình đẳng theo pháp luật.
Điều 11: Các chính quyền địa phương ở tất cả cấp và các bộ phận liên quan thực hiện hệ thống kiểm tra cạnh tranh công bằng, xây dựng các chính sách và biện pháp liên quan đến hoạt động sản xuất và kinh doanh phải thông qua kiểm tra cạnh tranh công bằng, thường xuyên đánh giá, kịp thời thanh lý, bãi bỏ các chính sách và biện pháp có chứa nội dung cản trở thị trường thống nhất quốc gia và cạnh tranh công bằng, bảo đảm tổ chức kinh tế tư nhân tham gia thị trường cạnh tranh một cách công bằng.
Cơ quan quản lý giám sát thị trường có trách nhiệm tiếp nhận thông báo về các chính sách và biện pháp vi phạm hệ thống kiểm tra cạnh tranh công bằng và xử lý theo pháp luật.
Điều 12: Nhà nước bảo đảm các tổ chức kinh tế tư nhân có quyền sử dụng tài chính, công nghệ, nguồn nhân lực, dữ liệu, đất đai và các yếu tố sản xuất cũng như tài nguyên công cộng khác một cách bình đẳng theo pháp luật, áp dụng cũng như chính sách hỗ trợ phát triển của Quốc gia một cách bình đẳng.
Điều 13: Chính phủ các cấp và các bộ phận liên quan theo quyền hạn quy định, khi xây dựng và thực hiện các chính sách và biện pháp liên quan đến việc phân bổ quỹ Nhà nước, cung cấp đất đai, tiêu chuẩn xả thải, mở dữ liệu công cộng, cấp phép năng lực, thiết lập tiêu chuẩn, nộp hồ sơ dự án, đánh giá chức danh, đánh giá xuất sắc, nguồn nhân lực, thực hiện các chính sách phải đối xử công bằng với tổ chức kinh tế tư nhân.
Điều 14: Các hoạt động giao dịch tài nguyên công cộng phải công khai, minh bạch và công bằng, phải đối xử bình đẳng với tất cả chịu tiền nhân các tổ chức kinh tế bao gồm tổ chức kinh tế tư nhân.
Ngoại trừ các quy định khác trong pháp luật, các hoạt động đấu thầu, mua sắm công không được có hành vi hạn chế hoặc loại trừ tổ chức kinh tế tư nhân.
Điều 15: Cơ quan thi hành pháp luật về chống độc quyền và cạnh tranh không công bằng phải theo trách nhiệm, ngăn ngừa và ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không công bằng trong hoạt động kinh tế thị trường, xử lý theo pháp luật đối với hành vi lạm dụng quyền hành chính để loại trừ, hạn chế cạnh tranh, tạo môi trường kinh tế tốt cho tổ chức kinh tế tư nhân.
Chương III: Khuyến khích đầu tư và tài chính
Điều 16: Hỗ trợ các tổ chức kinh tế tư nhân tham gia vào các chiến lược quan trọng và các dự án lớn của quốc gia. Khuyến khích các tổ chức kinh tế tư nhân đầu tư và khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp mới, lĩnh vực kinh tế của tương lai và khuyến khích chuyển đổi công nghệ và nâng cấp trong sản xuất truyền thống, tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại.
Điều 17: Các bộ phận liên quan của Chính phủ Quốc vụ viện căn cứ vào chiến lược phát triển lớn, kế hoạch phát triển và chính sách công nghiệp quốc gia, thống nhất nghiên cứu xây dựng và công bố các chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư kinh tế tư nhân, định hướng lĩnh vực đầu tư chủ yếu cho kinh tế tư nhân.
Các tổ chức kinh tế tư nhân đầu tư xây dựng các dự án tài sản cố định phù hợp với định hướng chiến lược của quốc gia được hưởng các chính sách hỗ trợ của nhà nước theo pháp luật.
Điều 18: Hỗ trợ các tổ chức kinh tế tư nhân thông qua nhiều phương thức khôi phục tài sản hiện có, cải thiện khả năng tái đầu tư, nâng cao chất lượng tài sản và hiệu quả.
Chính quyền địa phương các cấp và các bộ phận liên quan hỗ trợ tổ chức kinh tế tư nhân tham gia vào các dự án hợp tác giữa chính phủ và vốn xã hội. Các dự án hợp tác giữa chính phủ và vốn xã hội phải thiết lập quyền lợi và nghĩa vụ hợp lý giữa hai bên, xác định phương thức thu hồi đầu tư, cơ chế phân chia rủi ro, v.v.
Điều 19: Chính quyền địa phương các cấp và các bộ phận liên quan trong các vấn đề giới thiệu dự án, công việc chuẩn bị trước và thủ tục phê duyệt kế hoạch, thu thập yếu tố và hỗ trợ đầu tư của Chính phủ, phải cung cấp dịch vụ规范化、高效、便利 cho tổ chức kinh tế tư nhân trong việc đầu tư.
Điều 20: Các bộ phận liên quan của Chính phủ Quốc vụ viện theo trách nhiệm đóng góp vào việc sử dụng công cụ chính sách tiền tệ và chính sách tín dụng vĩ mô, theo nguyên tắc thị trường hóa và pháp lý, thực hiện chính sách khác biệt đối với các tổ chức kinh tế tư nhân nhỏ và vừa trong việc cung cấp dịch vụ tài chính, thúc đẩy và hỗ trợ các tổ chức tài chính xác định mức dung sai đối với khoản nợ xấu, thiết lập chế độ miễn trách nhiệm cho việc thực hiện nghĩa vụ, nâng cao khả năng phục vụ chuyên nghiệp và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ tài chính cho tổ chức kinh tế tư nhân.
Điều 21: Các tổ chức tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật, chấp nhận các phương thức đảm bảo phù hợp với nhu cầu cho vay và cung cấp cho tổ chức kinh tế tư nhân các khoản vay thế chấp để thương hiệu hóa, hàng tồn kho, cổ phần và quyền sở hữu trí tuệ.
Chính quyền địa phương các cấp và các bộ phận liên quan phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký, định giá, giao dịch, chia sẻ thông tin và các hoạt động khác liên quan đến tài sản động sản và quyền lợi.
Điều 22: Nhà nước tiếp tục xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro tài chính của tổ chức kinh tế tư nhân, hỗ trợ các tổ chức tài chính và tổ chức bảo lãnh tài chính mở rộng hợp tác một cách theo quy trình, phục vụ các tổ chức kinh tế tư nhân.
Điều 23: Các tổ chức tài chính trên nguyên tắc hợp pháp và tuân thủ pháp luật, phát triển và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân theo nguyên tắc thị trường hóa và phát triển bền vững, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế tư nhân có tình hình tín dụng tốt, điều chỉnh các khía cạnh của việc cung cấp tín dụng, thời gian cho vay và nhu cầu của tổ chức kinh tế tư nhân trong việc sử dụng năng lực tài chính, nâng cao khả năng của dịch vụ tài chính.
Điều 24: Các tổ chức tài chính phải đối xử công bằng với tổ chức kinh tế tư nhân trong việc cung cấp tín dụng, quản lý tín dụng, quản lý rủi ro và thu phí dịch vụ.
Nếu tổ chức tài chính vi phạm các quy định cung cấp hỗ trợ cho tổ chức kinh tế tư nhân, một cách đơn phương tăng điều kiện cung cấp tín dụng, tạm dừng cung cấp tín dụng hoặc thu hồi khoản vay trước hạn đều có trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 25: Tăng cường hệ thống thị trường vốn đa tầng, hỗ trợ các tổ chức kinh tế tư nhân đủ điều kiện có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các hình thức đầu tư khác bình đẳng.
Điều 26: Thiết lập cơ chế thu thập và chia sẻ thông tin tín dụng hoàn chỉnh; hỗ trợ các tổ chức tín dụng cung cấp dịch vụ tín dụng cho tổ chức kinh tế tư nhân; hỗ trợ các tổ chức xếp hạng tín dụng tối ưu hóa các phương pháp xếp hạng tín dụng của các tổ chức kinh tế tư nhân, tăng cường việc cung cấp tín dụng có hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức kinh tế tư nhân trong việc tiếp cận nguồn tài trợ.
Chương IV: Đổi mới công nghệ
Điều 27: Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức kinh tế tư nhân tích cực đóng góp vào việc thúc đẩy đổi mới công nghệ, nuôi dưỡng sản xuất lực mới, xây dựng hệ thống ngành công nghiệp hiện đại. Đưa các tổ chức kinh tế tư nhân dựa vào nhu cầu chiến lược quốc gia, xu hướng phát triển ngành, và công nghệ tiên tiến quốc tế, tăng cường nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu tiên tiến, phát triển công nghệ cốt lõi quan trọng, công nghệ cơ bản chung và công nghệ tiên tiến giao thoa, thúc đẩy sự phát triển tích hợp của đổi mới công nghệ và đổi mới ngành nghề, phát sinh ngành nghề mới, mô hình mới, động lực mới.
Đưa dẫn dắt các quỹ phi lợi nhuận hỗ trợ các tổ chức kinh tế tư nhân tiến hành nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu công nghệ tiên tiến và nghiên cứu công nghệ phục vụ lợi ích xã hội theo quy định của pháp luật.
Điều 28: Hỗ trợ các tổ chức kinh tế tư nhân tham gia vào các dự án công nghệ quốc gia, hỗ trợ các tổ chức kinh tế tư nhân có khả năng đứng đầu các nhiệm vụ công nghệ trọng điểm của quốc gia, mở cửa cho các tổ chức kinh tế tư nhân tham gia vào cơ sở hạ tầng nghiên cứu khoa học trọng điểm quốc gia, hỗ trợ các nền tảng nghiên cứu công cộng và công nghệ chung mở cửa chia sẻ, cung cấp dịch vụ bình đẳng cho tổ chức kinh tế tư nhân đổi mới công nghệ; khuyến khích mọi loại hình doanh nghiệp và các trường đại học, viện nghiên cứu, trường dạy nghề hợp tác sáng tạo với tổ chức kinh tế tư nhân, tiến hành giao lưu công nghệ và chuyển giao thành quả.
Điều 29: Hỗ trợ các tổ chức kinh tế tư nhân hợp pháp tham gia vào nghiên cứu phát triển công nghệ chung số hóa, thông minh và xây dựng thị trường dữ liệu. Thực hiện khai thác và sử dụng hợp pháp tài nguyên dữ liệu; gia tăng khả năng chia sẻ dữ liệu và an toàn, phát huy quyền lợi của dữ liệu.
Điều 30: Nhà nước bảo đảm các tổ chức kinh tế tư nhân có quyền hợp pháp tham gia vào công việc xây dựng tiêu chuẩn, tăng cường việc công khai thông tin và giám sát xã hội trong việc xây dựng tiêu chuẩn.
Nhà nước cung cấp dịch vụ và tiện ích cho tổ chức kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng nghiên cứu khoa học, xác nhận công nghệ, tiêu chuẩn hóa, xác nhận chất lượng, kiểm tra, sở hữu trí tuệ, ứng dụng mô hình.
Điều 31: Hỗ trợ các tổ chức kinh tế tư nhân tăng cường ứng dụng công nghệ mới, tiến hành thử nghiệm ứng dụng công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới và mô hình mới, phát huy vai trò của thị trường công nghệ, các tổ chức trung gian và thông qua nhiều cách thức thúc đẩy việc mang lại và mở rộng ứng dụng thành tựu công nghệ.
Khuyến khích các tổ chức kinh tế tư nhân trong quá trình đầu tư tự nguyện thực hiện hợp tác công nghệ theo các quy tắc thương mại. Điều kiện hợp tác công nghệ sẽ được thỏa thuận theo nguyên tắc công bằng giữa các bên tham gia đầu tư.
Điều 32: Khuyến khích các tổ chức kinh tế tư nhân tích cực đào tạo và sử dụng nhân tài có kiến thức, kỹ năng và sáng tạo, trong các vị trí quan trọng và quy trình quan trọng cần đào tạo và sử dụng nhân tài có kỹ năng cao, thúc đẩy xây dựng lực lượng công nhân ngành công nghiệp.
Điều 33: Nhà nước tăng cường bảo vệ sự đổi mới nguồn gốc của tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành tổ chức này. Tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho các thành tựu đổi mới, thực hiện chế độ bồi thường công phạt với những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, xử lý các hành vi xâm phạm quyền hạn nhãn hiệu, quyền sở hữu, bản quyền và xâm phạm bí mật thương mại, nhái và gây nhầm lẫn.
Tăng cường hợp tác khu vực, bộ ngành trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cung cấp dịch vụ bảo vệ nhanh chóng và phối hợp cho tổ chức kinh tế tư nhân, đa dạng hóa giải quyết tranh chấp, hỗ trợ bảo vệ quyền lợi và xem xét tình huống tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ ở nước ngoài.
Chương V: Quản lý điều hành
Điều 34: Các tổ chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong các tổ chức kinh tế tư nhân và các đảng viên phải tổ chức các hoạt động theo quy định của điều lệ của Đảng Cộng sản Trung Quốc và các quy định liên quan, phát huy vai trò chính trị dẫn dắt của các tổ chức đảng trong sự phát triển lành mạnh của các tổ chức kinh tế tư nhân.
Điều 35: Các tổ chức kinh tế tư nhân nên chủ động thể hiện vai trò trong việc phát triển kinh tế, mở rộng việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, và đổi mới công nghệ theo yêu cầu của công việc của quốc gia và đóng góp vào sự phát triển.
Điều 36: Các tổ chức kinh tế tư nhân tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh phải tuân thủ pháp luật trong các lĩnh vực như sử dụng nhân công, an toàn sản xuất, vệ sinh nghề nghiệp, bảo hiểm xã hội, môi trường sinh thái, tiêu chuẩn chất lượng, quyền sở hữu trí tuệ, an ninh mạng và dữ liệu, tài chính và thuế, không được kiếm lợi nhuận bất hợp pháp qua hành vi hối lộ hoặc lừa dối, không được làm tổn hại trật tự thị trường và tài chính, phá hủy môi trường sinh thái và tổn hại đến quyền lợi hợp pháp của người lao động cùng lợi ích công cộng.
Cơ quan nhà nước thực hiện giám sát và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức kinh tế tư nhân theo quy định của pháp luật.
Điều 37: Hỗ trợ các nguồn vốn tư nhân phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội, hoàn thiện các quy định hành động của nguồn vốn, điều chỉnh và dẫn dắt nguồn vốn tư nhân phát triển khỏe mạnh, bảo vệ trật tự nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và lợi ích công cộng. Khuyến khích các tổ chức kinh tế tư nhân tăng cường quản lý rủi ro, khuyến khích họ đào tạo nghề phù hợp, nâng cao khả năng cạnh tranh cốt lõi.
Điều 38: Các tổ chức kinh tế tư nhân cần hoàn thiện mô hình quản lý và các quy định quản lý, tiêu chuẩn hóa hành vi quản lý, tăng cường giám sát nội bộ để thực hiện quản lý chuẩn hóa; thực hiện các quy định luật pháp, thiết lập hệ thống quản lý dân chủ với cơ cấu đại hội đại diện công nhân. Khuyến khích các tổ chức kinh tế tư nhân đủ khả năng thiết lập và hoàn thiện hệ thống doanh nghiệp hiện đại đặc trưng Trung Quốc.
Các tổ chức công đoàn và tổ chức quần chúng trong tổ chức kinh tế tư nhân cần phải hoạt động theo quy định của pháp luật và điều lệ, tăng cường lãnh đạo tư tưởng chính trị, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động và phát huy vai trò của mình trong việc quản lý doanh nghiệp một cách dân chủ.
Hình thức tổ chức, cơ cấu tổ chức và quy tắc hoạt động của tổ chức kinh tế tư nhân sẽ áp dụng theo quy định của Luật doanh nghiệp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Luật công ty hợp danh và Luật doanh nghiệp tư nhân.
Điều 39: Nhà nước thúc đẩy xây dựng các cơ chế phòng chống tham nhũng từ nguồn và quản lý tổ chức kinh tế tư nhân, khuyến khích dẫn dắt tổ chức kinh tế tư nhân thiết lập và hoàn thiện chế độ kiểm toán nội bộ, tăng cường ngăn chặn và kiểm soát rủi ro trung thực, thúc đẩy tổ chức kinh tế tư nhân nâng cao mức độ thực hiện theo quy định, kịp thời ngăn ngừa, phát hiện và xử lý vấn đề vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh.
Các tổ chức kinh tế tư nhân cần tăng cường giáo dục pháp luật cho nhân viên, xây dựng văn hóa trung thực và kiên quyết thực hiện quy định của pháp luật.
Điều 40: Các tổ chức kinh tế tư nhân phải tuân thủ các quy định của pháp luật, quy định hành chính và chế độ kế toán thống nhất, tăng cường quản lý tài chính, quy định kế toán, ngăn chặn việc làm giả tài chính, phân tách tài sản của tổ chức kinh tế tư nhân với tài sản cá nhân của người điều hành tổ chức.
Điều 41: Hỗ trợ tổ chức kinh tế tư nhân thông qua việc tăng cường đào tạo kỹ năng, mở rộng việc làm và hoàn thiện chế độ phân phối lương, tạo điều kiện cho nhân viên chia sẻ thành quả phát triển.
Điều 42: Khám phá xây dựng hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội và cơ chế khuyến khích cho tổ chức kinh tế tư nhân, thúc đẩy và dẫn dắt các tổ chức kinh tế tư nhân thực hiện trách nhiệm xã hội một cách chủ động tham gia vào các hoạt động từ thiện, cứu trợ khẩn cấp.
Điều 43: Các tổ chức kinh tế tư nhân cùng như các người điều hành khi đầu tư ở nước ngoài phải tuân thủ pháp luật của quốc gia và khu vực nơi đầu tư, tôn trọng phong tục và truyền thống văn hóa địa phương, bảo vệ hình ảnh quốc gia và không được thực hiện các hoạt động tổn hại đến an ninh và lợi ích quốc gia.
Chương VI: Dịch vụ bảo đảm
Điều 44: Các cơ quan nhà nước và nhân viên của họ phải thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật trong công việc thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân. Các nhân viên nhà nước trong những giao tiếp với các nhà điều hành tổ chức kinh tế tư nhân cần tuân thủ pháp luật, duy trì sự chính trực và thanh liêm.
Chính phủ các cấp và các bộ phận liên quan thiết lập cơ chế giao tiếp hiệu quả giữa chính phủ và doanh nghiệp, kịp thời tiếp thu ý kiến và gợi ý từ các tổ chức kinh tế khác nhau bao gồm cả tổ chức kinh tế tư nhân, giải quyết các vấn đề hợp lý mà họ phản ánh.
Điều 45: Các cơ quan nhà nước xây dựng các quy định, pháp luật hoặc quy định liên quan đến hoạt động sản xuất và kinh doanh phải chú ý tiếp nhận ý kiến từ các tổ chức kinh tế khác nhau, hiệp hội ngành và các hội thương mại, đồng thời trong quá trình thực hiện phải để lại khoảng thời gian điều chỉnh thích hợp theo thực tế.
Theo các quy định trong Luật lập pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động sản xuất và kinh doanh sẽ không bị áp dụng ngược lại, ngoại trừ những quy định đặc biệt được đưa ra để bảo vệ quyền lợi và lợi ích của công dân, pháp nhân và tổ chức khác.
Điều 46: Chính phủ các cấp và các bộ phận liên quan phải công khai kịp thời thông tin liên quan đến phạm vi, tiêu chuẩn, điều kiện và quy trình xin hưởng các chính sách ưu đãi cho các tổ chức kinh tế tư nhân.
Điều 47: Chính phủ các cấp và các bộ phận liên quan xây dựng các chính sách khuyến khích tổ chức kinh tế tư nhân khởi nghiệp, cung cấp dịch vụ công, khuyến khích khởi nghiệp tạo việc làm.
Điều 48: Các cơ quan đăng ký phải cung cấp các dịch vụ đăng ký thành lập, thay đổi và hủy bỏ các tổ chức kinh tế hợp pháp, tuân thủ quy định pháp luật, quy định thống nhất, công khai minh bạch và tiện lợi cho tổ chức kinh tế tư nhân và các tổ chức kinh tế khác nhằm giảm chi phí gia nhập và rời bỏ thị trường.
Các hộ kinh doanh cá thể có thể tự nguyện chuyển đổi thành công ty theo pháp luật. Các cơ quan đăng ký, cơ quan thuế và các cơ sở khác cung cấp hướng dẫn và thuận lợi cho việc chuyển đổi hộ kinh doanh cá thể thành doanh nghiệp.
Điều 49: Khuyến khích và hỗ trợ các trường đại học, viện nghiên cứu, trường dạy nghề, cơ sở đào tạo kỹ năng kỹ thuật công cộng và các cơ sở đào tạo nghề khác sáng tạo mô hình đào tạo nhân tài, tăng cường giáo dục và đào tạo nghề, nuôi dưỡng nhân tài chuyên môn và công nhân ngành phù hợp với nhu cầu phát triển chất lượng cao của kinh tế tư nhân.
Các bộ phận quản lý nhân lực và bảo vệ xã hội xây dựng và hoàn thiện các cơ chế dịch vụ nhân lực, tạo nền tảng liên kết thông tin việc làm và tìm việc, cung cấp thuận lợi cho các tổ chức kinh tế tư nhân trong việc tuyển dụng.
Chính phủ các cấp và các bộ phận liên quan hoàn thiện các chính sách và biện pháp khuyến khích và bảo đảm cho nhân tài, thông suốt quá trình đánh giá chức danh cho tổ chức kinh tế tư nhân, hỗ trợ việc thu hút và đào tạo nhân tài cấp cao và hiếm hoi cho tổ chức kinh tế tư nhân.
Điều 50: Các cơ quan hành chính tuân thủ hoạt động theo pháp luật. Trong quá trình thực thi pháp luật, các cơ quan hành chính phải tránh hoặc giảm thiểu sự ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và kinh doanh bình thường của các tổ chức kinh tế tư nhân, và kịp thời phản hồi và xử lý các yêu cầu hợp lý và hợp pháp từ tổ chức kinh tế tư nhân.
Điều 51: Các biện pháp xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm của tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành cần phải được thực hiện theo nguyên tắc tương tự như với các tổ chức kinh tế khác. Nếu cần thiết phải xử phạt hành chính cho những hành vi vi phạm pháp luật, phải so sánh với sự thật, tính chất, hoàn cảnh và mức độ nguy hại xã hội của hành vi vi phạm, nếu có các tình tiết giảm nhẹ hoặc không bị xử phạt theo quy định của Luật xử phạt hành chính thì căn cứ vào đó để giảm nhẹ hoặc không bị xử phạt.
Điều 52: Chính phủ các cấp và các bộ phận liên quan thúc đẩy việc chia sẻ và công nhận thông tin kiểm soát. Tùy theo tình hình tín dụng của các tổ chức kinh tế tư nhân mà thực hiện quản lý phân cấp và phân loại, nâng cao hiệu quả quản lý.
Ngoại trừ các ngành đặc biệt liên quan đến an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân, trong đó có kiểm soát tiêu chuẩn, các hoạt động kiểm tra hành chính của các bộ phận quản lý thị trường liên quan phải được thực hiện thông qua việc lựa chọn ngẫu nhiên đối tượng kiểm tra và chỉ định nhân viên kiểm tra một cách ngẫu nhiên; các hạng mục kiểm tra và kết quả xử lý cần được công bố kịp thời đến xã hội. Đối với nhiều hạng mục kiểm tra cùng một đối tượng, cần cố gắng hợp nhất hoặc đưa vào trong phạm vi kiểm tra liên ngành.
Điều 53: Chính phủ các cấp và các bộ phận liên quan thiết lập và hoàn thiện cơ chế tiếp nhận khiếu nại và tố cáo về hành vi thi hành sai quy định hành chính, kịp thời tiếp nhận và xử lý các khiếu nại, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành.
Các cơ quan quản lý tư pháp thiết lập cơ chế liên lạc cho các yêu cầu hành chính liên quan đến tổ chức kinh tế tư nhân, tổ chức các cuộc kiểm tra hành chính, tăng cường giám sát hoạt động thi hành pháp luật, kịp thời điều chỉnh hành vi thi hành pháp luật không đúng.
Điều 54: Hoàn thiện hệ thống xử phạt đối với hành vi vi phạm và phục hồi tín dụng. Khi áp dụng hình thức xử phạt đối với việc vi phạm quy định, cần căn cứ theo các quy định của pháp luật, quy định và quy tắc liên quan, đồng thời căn cứ vào sự thật, tính chất và mức độ của hành vi vi phạm để áp dụng các hình thức xử phạt phù hợp.
Tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành khi khắc phục các hành vi vi phạm tín dụng, xóa bỏ ảnh hưởng xấu, trường hợp đủ điều kiện phục hồi tín dụng có thể đưa ra yêu cầu khôi phục tín dụng. Các cơ quan nhà nước có liên quan cần phải kịp thời gỡ bỏ các biện pháp xử phạt, xóa bỏ thông tin vi phạm tín dụng và thực hiện khôi phục tín dụng trên các nền tảng công khai tín dụng liên quan.
Điều 55: Thiết lập và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh tế tư nhân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Các cơ quan quản lý tư pháp tổ chức và phối hợp luật sư, công chứng viên, giám định tư pháp, các dịch vụ pháp lý tại địa phương, hòa giải nhân dân, hòa giải thương mại, trọng tài và các tổ chức hoặc chuyên gia tư vấn pháp luật khác để tham gia giải quyết tranh chấp liên quan đến tổ chức kinh tế tư nhân.
Điều 56: Các hiệp hội ngành nghề theo quy định của pháp luật, quy định và điều lệ, phát huy vai trò điều phối và tự quản, kịp thời phản ánh các yêu cầu của ngành, cung cấp thông tin tư vấn, tuyên truyền, đào tạo, mở rộng thị trường, bảo vệ quyền lợi và xử lý tranh chấp cho tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành tổ chức kinh tế tư nhân.
Điều 57: Nhà nước kiên trì mở cửa ở mức cao, tăng tốc tạo ra mô hình phát triển mới với vòng tuần hoàn nội địa là chính và sự thúc đẩy lẫn nhau giữa vòng tuần hoàn nội địa và quốc tế; hỗ trợ các tổ chức kinh tế tư nhân mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, tiến hành các hoạt động đầu tư và kinh doanh hợp pháp ở nước ngoài; tăng cường các dịch vụ tổng hợp như pháp luật, tài chính, logistics quốc tế và hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi ở nước ngoài để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành.
Chương VII: Bảo vệ quyền lợi
Điều 58: Quyền lợi nhân thân, tài sản và quyền tự quyết công việc của tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành tổ chức đó được pháp luật bảo vệ, không ai có thể xâm phạm.
Điều 59: Quyền danh, danh dự và danh hiệu của tổ chức kinh tế tư nhân và quyền danh dự, danh hiệu, quyền riêng tư, thông tin cá nhân của người điều hành tổ chức kinh tế tư nhân đều được pháp luật bảo vệ.
Không ai có quyền lợi dụng các phương tiện như Internet để tục tĩu, phỉ báng hay làm tổn hại đến quyền lợi nhân cách của tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành tổ chức đó. Các nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến cần tuân thủ các quy định pháp luật liên quan để thiết lập và thân thiện hóa cơ chế khiếu nại và tố cáo, kịp thời xử lý thông tin vi phạm pháp luật làm tổn hại quyền lợi hợp pháp của những người liên quan và báo cáo đến cơ quan chức năng.
Các tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành tổ chức đó có quyền hợp pháp đưa đơn tại Tòa án nhân dân yêu cầu ngừng hành vi vi phạm quyền lợi của mình. Nếu các quyền lợi của tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành tổ chức bị xâm phạm một cách độc ác dẫn đến tổ chức kinh tế tư nhân gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, đầu tư hoặc tài trợ, người vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 60: Các cơ quan nhà nước và nhân viên của họ khi tiến hành điều tra hoặc yêu cầu phối hợp điều tra cần tránh và giảm thiểu tác động đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh bình thường. Việc thực hiện những biện pháp hạn chế tự do phải tuân thủ chặt chẽ theo quyền lực của pháp luật, điều kiện và quy trình quy định.
Điều 61: Việc thu hồi và chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện chặt chẽ theo quyền hạn, điều kiện và quy trình được pháp luật quy định.
Nếu việc thu hồi và chiếm đoạt tài sản theo quy định pháp luật vì lợi ích công cộng mà cần thiết phải thực hiện, thì phải thực hiện các biện pháp bồi thường công bằng và hợp lý.
Không ai có quyền vi phạm pháp luật và quy định để thu phí từ tổ chức kinh tế tư nhân bất hợp pháp, không được áp đặt các khoản phạt không có quy định pháp luật và không được yêu cầu tổ chức kinh tế tư nhân cân nhắc tài sản.
Điều 62: Việc tịch thu, đóng băng, phong tỏa tài sản liên quan đến vụ án phải tuân thủ quyền lực, điều kiện và quy trình quy định, phân định rõ tài sản hợp pháp và không hợp pháp; tài sản của tổ chức kinh tế tư nhân và tài sản cá nhân của người điều hành; tài sản liên quan đến vụ án và tài sản của bên ngoài, không được vượt quá quyền hạn, vượt quá phạm vi, vượt quá bàn tay, hay thu giữ tài sản trong thời gian dài. Các tài sản bị tịch thu, phong tỏa hoặc đóng băng phải được bảo quản cẩn thận.
Điều 63: Các vụ án cần phân định rõ ràng giữa tranh chấp kinh tế và tội phạm kinh tế, tuân thủ các quy định về thời gian truy tố theo pháp luật; không xử lý như tội phạm nếu hoạt động sản xuất và kinh doanh không vi phạm quy định của luật hình sự; nếu sự thật không rõ ràng, không đủ chứng cứ hoặc không có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật thì cần phải hủy bỏ vụ án, không truy tố hoặc tuyên bố vô tội.
Cấm sử dụng biện pháp hành chính hoặc hình sự để can thiệp vào tranh chấp kinh tế.
Điều 64: Quy định về hành động thi hành ngoài địa phương, thiết lập và hoàn thiện các quy chế phối hợp ngoài địa phương. Các vụ án cần thi hành ở địa phương khác cần phải tuân thủ quyền lực, điều kiện và quy trình quy định. Nếu có tranh chấp về quyền quản lý của các cơ quan nhà nước, có thể tiến hành thương lượng, nếu không thành công thì sẽ được lên cấp trên vào giải quyết, các quy định khác của pháp luật thì thực hiện theo quy định của pháp luật.
Cấm lạm dụng quyền lực để thực hiện các hành động thi hành ngoài địa phương vì mục đích kinh tế cá nhân.
Điều 65: Các tổ chức kinh tế tư nhân và những người điều hành tổ chức có thể hợp pháp phản ánh tình hình và khiếu nại đối với các hành động không hợp pháp trong hoạt động sản xuất và kinh doanh cùng với quyền hành chấm dứt, yêu cầu xem xét hành chính theo quy định của pháp luật hoặc tiến hành hòa giải, khởi kiện.
Điều 66: Các cơ quan kiểm sát thực hiện giám sát pháp lý đối với các hoạt động tố tụng có liên quan đến tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành tổ chức đó, kịp thời tiếp nhận và xem xét các phản ánh, khiếu nại liên quan. Nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, cần phải đề xuất kháng cáo theo pháp luật, sửa đổi ý kiến và khuyến nghị theo pháp luật.
Điều 67: Các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước phải kịp thời thanh toán các khoản nợ cho tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành tổ chức đó theo quy định của pháp luật hoặc hợp đồng; không được viện dẫn do thay đổi nhân viên, quy trình thanh toán nội bộ hoặc không có quy định hợp đồng mà kéo dài thời hạn thanh toán theo lý do chờ phê duyệt nghiệm thu, quyết toán, và không được bắt buộc phải yêu cầu dựa vào kết quả kiểm toán như một căn cứ thanh toán.
Các cơ quan kiểm toán thực hiện giám sát kiểm toán theo pháp luật về việc thanh toán cho tổ chức kinh tế tư nhân của các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp.
Điều 68: Các doanh nghiệp lớn khi mua sắm hàng hóa, công trình và dịch vụ từ các tổ chức kinh tế tư nhân nhỏ và vừa phải công bằng và hợp lý thương lượng thời hạn thanh toán và kịp thời thanh toán, không được lấy lý do chỉ thanh toán khi nhận được khoản trả cho bên thứ ba.
Tòa án nhân dân phải kịp thời tiếp nhận, điều tra và xử lý các vụ án mà doanh nghiệp nhỏ và vừa không thanh toán đúng hạn cho các khoản nợ với tổ chức kinh tế tư nhân, có thể tiến hành hòa giải trên nguyên tắc tự nguyện và hợp pháp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức kinh tế tư nhân nhỏ và vừa.
Điều 69: Chính phủ các cấp cần phải tăng cường công việc bảo đảm thanh toán các khoản nợ, ngăn ngừa và giải quyết tình trạng chậm thanh toán với tổ chức kinh tế tư nhân; làm tốt công tác quản lý ngân sách, các dự án mua sắm của nhà nước phải được thực hiện theo ngân sách đã được phê duyệt; tăng cường quản lý công việc xử lý nợ chậm, khuyến khích các bên thương lượng giải quyết tranh chấp, tổ chức thương lượng, hòa giải cho các tình huống có tranh chấp lớn. Việc thương lượng, hòa giải nên phát huy vai trò của Liên minh thương mại và công nghiệp, Hiệp hội Luật sư, v.v.
Điều 70: Các chính quyền địa phương và các bộ phận liên quan phải thực hiện các cam kết chính sách đối với tổ chức kinh tế tư nhân theo quy định của pháp luật và hợp đồng đã ký kết với tổ chức kinh tế tư nhân, không được viện dẫn lý do điều chỉnh địa giới hành chính, thay đổi chính quyền hoặc đổi mới các nhân viên liên quan để vi phạm hợp đồng.
Nếu cần thay đổi chính sách cam kết hoặc quy định trong hợp đồng vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì cần tuân theo quyền hạn và quy trình pháp luật để thực hiện và bồi hoàn cho tổ chức kinh tế tư nhân về bất kỳ tổn thất nào phát sinh từ đó.
Chương VIII: Trách nhiệm pháp lý
Điều 71: Vi phạm quy định của luật này có một trong những tình huống sau đây, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu khắc phục, gây ra hậu quả xấu hoặc ảnh hưởng sẽ có trách nhiệm cá nhân liên quan đến lãnh đạo và nhân viên vi phạm pháp luật:
(1) Ban hành các chính sách mà không trải qua kiểm tra cạnh tranh công bằng hoặc không gây cản trở;
(2) Hạn chế hoặc loại trừ tổ chức kinh tế tư nhân trong các giao dịch tài nguyên công cộng như đấu thầu, mua sắm của chính phủ.
Điều 72: Các biện pháp thu hồi đăng ký, cưỡng chế hoặc phong tỏa do vi phạm luật đều được cơ quan có thẩm quyền yêu cầu khắc phục; nếu gây ra thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật; nếu gây ra hậu quả xấu hoặc ảnh hưởng thì các lãnh đạo liên quan và nhân viên chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định.
Các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu khắc phục các vi phạm trong phạm vi trách nhiệm của mình là cần thiết phải xử lý.
Điều 73: Các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước phải hoàn trả cho các tổ chức kinh tế tư nhân các khoản nợ thanh toán phát sinh khi thực hiện theo quy định của pháp luật và hợp đồng đã ký kết; nếu từ chối hoặc chậm trễ thanh toán nợ theo quy định của pháp luật, các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật; nếu có các nhà đầu tư lớn vi phạm hợp đồng và không thanh toán đúng hạn cho tổ chức kinh tế tư nhân nhỏ và vừa sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Điều 74: Vi phạm quy định của luật này và xâm hại quyền lợi hợp pháp của tổ chức kinh tế tư nhân và người điều hành tổ chức, nếu các quy định khác về xử phạt hành chính thì chuẩn theo quy định; nếu gây tổn thương thân thể hoặc thiệt hại tài sản thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật; nếu cấu thành tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Điều 75: Các hoạt động sản xuất và kinh doanh của tổ chức kinh tế tư nhân vi phạm quy định của pháp luật và bị yêu cầu khắc phục; nếu gây tổn thương thân thể hoặc thiệt hại tài sản phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật; nếu cấu thành tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định.
Điều 76: Các biện pháp gian lận nhằm giành được các phần thưởng, vinh danh hay các chính sách ưu đãi khác sẽ giành được sự hủy bỏ các phần thưởng được trao, đồng thời một cách hợp pháp sẽ bị phạt; nếu cấu thành tội phạm phải bị điều tra theo pháp luật.
Chương IX: Điều khoản thi hành
Điều 77: Tổ chức kinh tế tư nhân là tổ chức hợp pháp hoạt động tại lãnh thổ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, do công dân Trung Quốc đứng đầu hoặc kiểm soát dựa trên mẫu tổ chức kinh doanh có lợi nhuận, tổ chức không có pháp nhân và hộ kinh doanh cá thể và các tổ chức hoặc tổ chức có lợi nhuận khác được tổ chức và kiểm soát bởi nhóm trên.
Các tổ chức kinh tế tư nhân có đầu tư từ nước ngoài cũng đồng thời phải tuân theo các quy định về đầu tư của nước ngoài.
Điều 78: Luật này có hiệu lực từ ngày 20 tháng 5 năm 2025. (Kết thúc)