Theo thống kê của Hải quan, trong 4 tháng đầu năm 2025, tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 14,14 triệu tỷ đồng, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu đạt 8,39 triệu tỷ đồng, tăng 7,5%; nhập khẩu đạt 5,75 triệu tỷ đồng, giảm 4,2%. Tháng 4, tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 3,84 triệu tỷ đồng, tăng 5,6%. Trong đó, xuất khẩu đạt 2,27 triệu tỷ đồng, tăng 9,3%; nhập khẩu đạt 1,57 triệu tỷ đồng, tăng 0,8%.
4 tháng đầu năm, xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam có những đặc điểm chính như sau:
Một, xuất nhập khẩu ở dạng thương mại thông thường và chế biến có sự tăng trưởng.
Trong 4 tháng đầu năm, xuất nhập khẩu theo hình thức thương mại thông thường đạt 9,05 triệu tỷ đồng, tăng 0,6%, chiếm 64% tổng giá trị thương mại của Việt Nam. Trong đó, giá trị xuất khẩu đạt 5,53 triệu tỷ đồng, tăng 7,3%; nhập khẩu đạt 3,52 triệu tỷ đồng, giảm 8,4%. Cùng thời gian này, xuất nhập khẩu ở dạng chế biến đạt 2,54 triệu tỷ đồng, tăng 6,6%, chiếm 18%. Trong đó, xuất khẩu đạt 1,58 triệu tỷ đồng, tăng 5,5%; nhập khẩu đạt 960,57 tỷ đồng, tăng 8,4%. Thêm vào đó, xuất nhập khẩu theo hình thức logistics bảo thuế đạt 2,04 triệu tỷ đồng, tăng 7%. Trong đó, xuất khẩu đạt 847,48 tỷ đồng, tăng 17,7%; nhập khẩu đạt 1,19 triệu tỷ đồng, tăng 0,6%.
Hai, xuất nhập khẩu với ASEAN và EU tăng trưởng.
Trong 4 tháng đầu năm, ASEAN là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, tổng giá trị thương mại với ASEAN đạt 2,38 triệu tỷ đồng, tăng 9,2%, chiếm 16,8% tổng giá trị thương mại của Việt Nam. Trong đó, xuất khẩu đạt 1,48 triệu tỷ đồng, tăng 12,6%; nhập khẩu đạt 895,17 tỷ đồng, tăng 4%. EU là đối tác thương mại lớn thứ hai, tổng giá trị thương mại với EU đạt 1,78 triệu tỷ đồng, tăng 1,1%, chiếm 12,6%. Trong đó, xuất khẩu đạt 1,21 triệu tỷ đồng, tăng 6,1%; nhập khẩu đạt 563,59 tỷ đồng, giảm 8,1%. Mỹ đứng thứ ba trong danh sách đối tác thương mại, với tổng giá trị thương mại đạt 1,44 triệu tỷ đồng, giảm 2,1%, chiếm 10,2%. Trong đó, xuất khẩu đạt 1,07 triệu tỷ đồng, giảm 1,5%; nhập khẩu đạt 369,95 tỷ đồng, giảm 3,7%.
Cùng thời gian này, tổng xuất nhập khẩu với các quốc gia tham gia “Vành đai và Con đường” đạt 7,25 triệu tỷ đồng, tăng 3,9%. Trong đó, xuất khẩu đạt 4,15 triệu tỷ đồng, tăng 9,6%; nhập khẩu đạt 3,1 triệu tỷ đồng, giảm 2,8%.
Ba, tỷ trọng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp tư nhân tăng.
Trong 4 tháng đầu năm, các doanh nghiệp tư nhân có xuất nhập khẩu đạt 8,05 triệu tỷ đồng, tăng 6,8%, chiếm 56,9% tổng giá trị thương mại của Việt Nam, tăng 2,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu đạt 5,47 triệu tỷ đồng, tăng 8,1%, chiếm 65,1% tổng giá trị xuất khẩu; nhập khẩu đạt 2,58 triệu tỷ đồng, tăng 4,2%, chiếm 45% tổng giá trị nhập khẩu. Cùng thời gian này, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có xuất nhập khẩu đạt 4,1 triệu tỷ đồng, tăng 1,9%, chiếm 29% tổng giá trị thương mại. Trong đó, xuất khẩu đạt 2,28 triệu tỷ đồng, tăng 6,1%; nhập khẩu đạt 1,82 triệu tỷ đồng, giảm 3%. Doanh nghiệp nhà nước có xuất nhập khẩu đạt 1,96 triệu tỷ đồng, giảm 11,3%, chiếm 13,9% tổng giá trị thương mại. Trong đó, xuất khẩu đạt 640,6 tỷ đồng, tăng 7,3%; nhập khẩu đạt 1,32 triệu tỷ đồng, giảm 18,2%.
Bốn, sản phẩm cơ khí điện tử chiếm tỷ trọng xuất khẩu trên 60%, trong đó xuất khẩu thiết bị xử lý dữ liệu tự động và linh kiện, vi mạch và ô tô tăng.
Trong 4 tháng đầu năm, Việt Nam xuất khẩu sản phẩm cơ khí điện tử đạt 5,04 triệu tỷ đồng, tăng 9,5%, chiếm 60,1% tổng giá trị xuất khẩu. Trong đó, thiết bị xử lý dữ liệu tự động và linh kiện đạt 458,71 tỷ đồng, tăng 5,6%; vi mạch đạt 405,15 tỷ đồng, tăng 14,7%; ô tô đạt 264,98 tỷ đồng, tăng 4%. Cùng thời gian này, xuất khẩu sản phẩm lao động thủ công đạt 1,3 triệu tỷ đồng, giảm 1,6%, chiếm 15,4%. Trong đó, hàng dệt may đạt 329,17 tỷ đồng, tăng 4,9%. Xuất khẩu nông sản đạt 235,57 tỷ đồng, tăng 6,1%.
Năm, giá nhập khẩu của các mặt hàng lớn như quặng sắt, dầu thô, than giảm, trong khi giá trị nhập khẩu sản phẩm cơ khí điện tử tăng.
Trong 4 tháng đầu năm, Việt Nam nhập khẩu 38,8 triệu tấn quặng sắt, giảm 5,5%, giá trung bình mỗi tấn 710,4 đồng, giảm 17,8%; dầu thô 18,3 triệu tấn, tăng 0,5%, giá mỗi tấn 3936,7 đồng, giảm 8%; than 15,3 triệu tấn, giảm 5,3%, giá mỗi tấn 569,6 đồng, giảm 22,2%; khí tự nhiên 38,994 triệu tấn, giảm 9,2%, giá mỗi tấn 3318,3 đồng, giảm 6,1%; đậu nành 23,19 triệu tấn, giảm 14,6%, giá mỗi tấn 3283,2 đồng, giảm 15%; dầu thành phẩm 12,92 triệu tấn, giảm 25,6%, giá mỗi tấn 4381,8 đồng, tăng 1,6%. Ngoài ra, nhập khẩu nhựa dạng nguyên liệu đạt 9,525 triệu tấn, giảm 1,1%, giá mỗi tấn đạt 10,5 triệu đồng, giảm 0,5%; đồng thô và nguyên liệu đồng đạt 1,742 triệu tấn, giảm 3,9%, giá mỗi tấn 69 triệu đồng, tăng 8,5%. Cùng thời gian này, nhập khẩu sản phẩm cơ khí điện tử đạt 2,23 triệu tỷ đồng, tăng 5,7%.
Bài viết được biên soạn từ “Tổng cục Hải quan Trung Quốc”; biên tập viên Zhitong Caijing: Lưu Tuyền.